Qua công tác kiểm sát xét xử vụ án dân sự, Phòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhận thấy vụ án bị cấp phúc thẩm hủy do vi phạm về tố tụng và nội dung cần thông báo để rút kinh nghiệm chung.
Vụ thứ nhất:
Vụ kiện “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa:
Nguyên đơn: Bà Lý Thị Phê, sinh năm 1952; địa chỉ: 62/4/26, đường Cách Mạng Tháng Tám, phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Bị đơn: Bà Tô Ánh Hồng, sinh năm 1964; địa chỉ: Khu phố Hải Vân, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ, ông Phan Văn Nhỏ.
1. Về nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm:
- Nội dung vụ án:
Bà Phê tranh chấp với bà Hồng diện tích đất 446m2, bà Phê yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang tranh chấp đã được Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ đã cấp giấy chứng nhận cho bà Hồng. Bà Hồng cũng phản tố yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Phê. Thực tế, Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ đã cấp giấy chứng nhận phần đất tranh chấp cho cả bà Hồng và bà Phê; Tòa án nhận thấy bà Hồng sử dụng đất là hợp pháp nên tuyên “ Chấp nhận yêu cầu của bà Tô Ánh Hồng, kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ chỉnh lý giảm diện tích 446m2 gồm thửa đất số 593 diện tích 347m2 và thửa đất số 597 diện tích 99m2 tờ bản đồ số 13 ra khỏi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 557154 vào sổ cấp giấy số 00036.QSDĐ/779/QĐUB ngày 20/9/2000 đã cấp cho bà Lý Thị Phê”.
- Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên đã quyết định:
1/ Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Phê, yêu cầu bà Tô Ánh Hồng phải giao trả quyền sử dụng đất có diện tích 446m2, thửa đất số 593 và 597 tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại thị trấn Phước Hải. Đất đã được Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Tô Ánh Hồng số Đ 741819 vào số 00591/QSDĐ/1378/QĐUB ngày 16/6/2004.
Không chấp nhận yêu cầu của bà Lý Thị Phê, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 304103, số Đ 741819 vào sổ cấp giấy số 00591/ QSDĐ/1378/QĐUB ngày 16/6/2004 đã cấp cho bà Hồng đối với thửa đất số 593 và 597 tờ bản đồ số 13 thị trấn Phước Hải.
2/ Chấp nhận yêu cầu của bà Tô Ánh Hồng, kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ chỉnh lý giảm diện tích 446m2 gồm thửa đất số 593 diện tích 347m2 và thửa đất số 597 diện tích 99m2 tờ bản đồ số 13 ra khỏi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 557154 vào sổ cấp giấy số 00036.QSDĐ/779/QĐUB ngày 20/9/2000 đã cấp cho bà Lý Thị Phê.
3/ …
4/ Chi phí đo vẽ: Chi phí đo vẽ đất theo hợp đồng là 7.229.475 đồng bà Phê phải chịu.
5/ Về án phí: Bà Lý Thị Phê phải chịu 1.360.000 đồng, tiền án phí có giá ngạch…
Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
2. Những vi phạm cần rút kinh nghiệm
- Bà Phê tranh chấp với bà Hồng diện tích đất 446m2, bà Phê yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang tranh chấp đã được Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ đã cấp giấy chứng nhận cho bà Hồng. Bà Hồng cũng phản tố yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Phê. Thực tế, Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ đã cấp giấy chứng nhận phần đất tranh chấp cho cả bà Hồng và bà Phê; Tòa án nhận thấy bà Hồng sử dụng đất là hợp pháp nên tuyên “ Chấp nhận yêu cầu của bà Tô Ánh Hồng, kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ chỉnh lý giảm diện tích 446m2 gồm thửa đất số 593 diện tích 347m2 và thửa đất số 597 diện tích 99m2 tờ bản đồ số 13 ra khỏi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 557154 vào sổ cấp giấy số 00036.QSDĐ/779/QĐUB ngày 20/9/2000 đã cấp cho bà Lý Thị Phê”. Việc bản án tuyên kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ để chỉnh lý lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp rõ ràng trái pháp luật là không đúng với quy định tại Điều 32a BLTTDS. Do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp rõ ràng trái pháp luật và yêu cầu của đương sự là có cơ sở thì cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo yêu cầu của đương sự và phù hợp với quy định về quyền của Tòa án theo điều luật đã viện dẫn trên.
- Tại phiên tòa phúc thẩm, cả nguyên đơn và bị đơn cung cấp thêm bản án có căn cứ pháp luật khác với bản án có trong hồ sơ phúc thẩm. Bản án sơ thẩm cấp tống đạt cho đương sự căn cứ Điều 50, 105, 136 Luật đất đai năm 2003 để giải quyết vụ án. Bản án sơ thẩm có trong hồ sơ phúc thẩm căn cứ Điều 100, 166, 203 Luật đất đai 2013 để giải quyết vụ án. Như vậy, cấp sơ thẩm đã ban hành hai bản án cùng một vụ án có căn cứ pháp luật khác nhau, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- Thu thập chứng cứ không đầy đủ, không làm rõ quá trình sử dụng đất tranh chấp: Cấp sơ thẩm chỉ dựa vào Công văn số 4485/UBND-PTNMT ngày 23/9/2014 của Ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ, đã nhận định “thửa đất số 593 nằm giữa khuôn viên quyền sử dụng đất của bà Hồng đang quản lý sử dụng, không liên cư, giáp ranh với thửa đất nào khác của bà Phê, nếu như thực tế bà Phê cũng như cha mẹ của bà Phê có chiếm hữu sử dụng thửa đất trên thì không có lối đi vào đất, thửa 593 và 597 không giáp ranh liền kề với nhau, mà nằm cách xa nhau trong khuôn viên đất của bà Hồng quản lý sử dụng. Đất nông nghiệp có diện tích nhỏ các thửa đất nằm rải rác không giáp ranh liền kề thì khó cho việc quản lý sử dụng, trong thực tế thì không có trường hợp xảy ra” để giải quyết vụ án khi chưa xác minh làm rõ quá trình quản lý, sử dụng đất là chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án.
Bản án tuyên buộc bà Lý Thị Phê phải chịu 1.360.000 đồng trên giá trị đất tranh chấp theo giá nhà nước mà không xác định giá thị trường để làm cơ sở tính án phí là không đúng với quy định tại Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Ngoài ra, về chi phí định giá, đo vẽ là 9.229.475 đồng, bản án không thu thập được hóa đơn thanh toán, nên chưa đủ cơ sở để quyết định nghĩa vụ phải chịu chi phí đo vẽ, định giá của bà Phê như bản án đã tuyên.
Do cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng mà cấp phúc thẩm không khắc phục được, Bản án dân sự phúc thẩm số 72/2015/DS-PT ngày 10/12/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tuyên hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2015/DS-ST ngày 10/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ.
Vụ thứ hai:
Vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa:
Nguyên đơn: Ông Vũ Đức Hồng, sinh năm 1949; bà Dương Thị Đào, sinh năm 1957; địa chỉ: 64/3, Lê Lai, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bị đơn: Ông Phạm Văn Nha, sinh năm 1948; địa chỉ: 86/B6 Lê Hồng Phong, phường 4, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Mai Thị Đa, sinh năm 1955; địa chỉ: 86/B6 Lê Hồng Phong, phường 4, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người làm chứng:
Ông Trần Văn Tăng, sinh năm 1935; địa chỉ: 132/4 Nguyễn Đình Chiểu, khu phố 6, phường Phước Hiệp, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
1. Về nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm:
- Về nội dung vụ án:
Ông Trần Văn Tăng có quyền sử dụng 3.140m2 đất tọa lạc tại đường 27/4, phường Phước Hưng, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; ông Phạm Văn Nha có có quyền sử dụng 2.170m2 đất tọa lạc tại cánh đồng Phụng, phường Phước Hưng, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngày 23/5/1993, ông Tăng và ông Nha thỏa thuận trao đổi đất với nhau, ông Nha đưa thêm cho ông Tăng 6,5 cây vàng chênh lệch giá trị đất. Trước đó, ngày 22/5/1993, ông Nha lập hợp đồng chuyển nhượng thành quả lao động gắn liền với quyền sử dụng đất cho ông Hồng, diện tích 475m2 đất mặt tiền đường Bà Rịa đi Châu Pha, tọa lạc tại phường Phước Hưng thành phố Bà Rịa, với giá 3,4 cây vàng 24k thuộc phần đất trao đổi với ông Tăng. Ngày 30/4/1993, bà Đào (vợ ông Hồng) đã giao đủ 3,4 cây vàng cho ông Nha (có lập giấy biên nhận). Ông Nha đã lấy số vàng của ông Hồng giao cho ông Tăng, nhưng chưa giao đất cho ông Hồng. Đến ngày 26/6/1996, Ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa (nay là thành phố Bà Rịa) ban hành Quyết định số 202/QĐ/UBTX thu hồi 3.140m2 của ông Tăng. Năm 2011, ông Hồng gửi đơn tố cáo ông Nha đến Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ông Nha đồng ý trả 3,4 cây vàng và lãi suất nhưng không thực hiện, nên ông Hồng khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trả 3,4 cây vàng 24k cho ông và bồi thường 650.000.000 đồng chênh lệch giá đất.
- Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2015/DS-ST ngày 19/8/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Đức Hồng, bà Dương Thị Đào đối với ông Phạm Văn Nha và bà Mai Thị Đa.
1/ Tuyên bố giấy chứng nhận ngày 30/4/1993 và hợp đồng chuyển nhượng thành quả lao động gắn liền với quyền sử dụng đất ngày 22/5/1993 đối với diện tích 475m2 đất mặt tiền đường từ Bà Rịa đi Châu Pha, tọa lạc tại phường Phước Hưng, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ký kết giữa ông Phạm Văn Nha và bà Dương Thị Đào là hợp đồng vô hiệu.
Ông Phạm Văn Nha và bà Mai Thị Đào hoàn trả cho ông Vũ Đức Hồng, bà Dương Thị Đào 3,4 cây vàng quy đổi ra tiền đồng Việt Nam là 115.600.000 đồng.
2/ Bác yêu cầu của ông Vũ Đức Hồng, bà Dương Thị Đào đối với ông Phạm Văn Nha và bà Mai Thị Đa về việc đòi bồi thường thiệt hại số tiền 650.000.000 đồng.
Về án phí ông Nha và bà Đa phải nộp 5.780.000 đồng. Ông Hồng, bà Đào phải nộp 30.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ, chi phí đo vẽ, định giá và quyền kháng cáo của các đương sự.
2. Những vi phạm cần rút kinh nghiệm
* Về tố tụng:
- Xác định quan hệ tranh chấp chưa đúng: Tại đơn khởi kiện ngày 18/4/2013 của ông Vũ Đức Hồng và Thông báo thụ lý số 100/2013/TLST-DS ngày 15/5/2013 đã thể hiện yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trả vàng và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Do đó, các bên không tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên quan hệ tranh chấp cần được xác định là “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” để xử lý hậu quả hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho phù hợp.
- Xác định sai tư cách đương sự theo quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTDS: Bản án xác định ông Trần Văn Tăng là người làm chứng là thiếu chính xác, thay vì tư cách ông Tăng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, bởi: Ông Tăng là người đang sử dụng 1.000m2 đất trong diện tích 3.140m2 đất của ông Nha mà các bên đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng và đang giữ số vàng chuyển nhượng đất Từ ông Hồng giao cho ông Nha. Do đó, cần xác định ông Tăng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không phụ thuộc việc ông Nha có yêu cầu độc lập đối với ông Tăng hay không.
- Trong vụ án này, ông Nha không có yêu cầu gì với ông Tăng, nhưng ông Nha đã khởi kiện ông Tăng bằng một vụ kiện dân sự khác. Nhận thấy, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các đương sự đan xen nhau, những vấn đề cần làm rõ để giải quyết triệt để nội dung vụ án như: Thời điểm Ủy ban nhân dân thu hồi đất của ông Tăng giao cho ông Nha thì ông Nha đã nhận đất sử dụng như thế nào, phần đất của ông Tăng bán cho bà Thêm, ông Tăng có giao tiền lại cho ông Nha không. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được giải quyết kịp thời, nhanh chóng; đánh giá chứng cứ để xác định lỗi của các bên được toàn diện, đầy đủ, thì cần nhập vụ án để giải quyết theo quy định tại Điều 38 BLTTDS.
* Về nội dung:
Từ thực tế giao dịch các bên đã ký kết, bản án đã tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu là đúng, nhưng xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu là chưa phù hợp với quy định tại điểm c3, tiểu mục c, mục 2.3, khoản 2 Phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004. Theo đó, giá trị quyền sử dụng đất được xác định để tính thiệt hại xảy ra và buộc bên có lỗi phải bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm xét xử. Nhưng bản án đã áp dụng giá nhà nước 126.000 đồng/m2 để làm cơ sở xác định không có thiệt hại xảy ra khi giải quyết vụ án là không đúng với quy định pháp luật đã viện dẫn trên. Tại biên bản định giá ngày 11/9/2014, đất tranh chấp có giá thị trường 11.000.000 đồng/m2 x 475m2 = 5.225.000.000 đồng, chênh lệch với giá bán 3,4 cây vàng = 115.600.000 đồng là 5.109.400.000 đồng. Do đó, có cơ sở xác định có thiệt hại xảy ra, nên cần phải xem xét chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn theo mức độ lỗi của các bên. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án cấp sơ thẩm cũng chưa đánh giá, nhận xét mức độ lỗi của các bên dẫn đến hợp đồng vô hiệu để làm cơ sở quyết định mức bồi thường cho thỏa đáng.
Ngoài ra, bản án quyết định 3,4 cây vàng 24k quy đổi = 115.600.000 đồng nhưng không thể hiện trên cơ sở pháp lý nào tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
* Về án phí:
Đối với quan hệ tranh chấp “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” thì ngoài tiền án phí có giá ngạch đối với hậu quả của hợp đồng vô hiệu, còn phải chịu tiền án phí không có giá ngạch đối với “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”. Đồng thời, ông Hồng yêu cầu bồi thường thiệt hại do hậu quả của hợp đồng vô hiệu là có cơ sở, cần được xem xét chấp nhận theo mức độ lỗi của các bên, nên cần phải tính lại số tiền án phí buộc ông Hồng phải chịu.
Qua công tác kiểm sát bản án, Phòng 9 đã phát hiện những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội dung, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 650/QĐ/KNPT- P5 ngày 18/9/2015 theo hướng đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu giải quyết lại theo thủ tục chung.
Bản án dân sự phúc thẩm số 64/2015/DS-PT ngày 13/11/015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Trên đây là những vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ án; Phòng kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông báo để các đơn vị rút kinh nghiệm chung.
Phạm Thị Thanh Hoa – Phòng 9