19/10/14 14:49

Báo cáo bản thuyết minh NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỚN CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU

BÁO CÁO
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỚN CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU

            I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ (SỬA ĐỔI)
Việc xây dựng Dự án Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) (sửa đổi) phải quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau đây:
           Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013 liên quan đến tố tụng hình sự, bảo đảm tính liên tục, hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự.
          Thứ hai, phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003, tiếp tục kế thừa những quy định đang phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, khắc phục một cách căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra trong quá trình thi hành BLTTHS, đồng thời, hoàn thiện kỹ thuật lập pháp, bảo đảm tính cụ thể, minh bạch và khả thi của BLTTHS.
         Thứ ba, phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam, khẳng định tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn ở nước ta; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng phù hợp với truyền thống văn hóa, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
         Thứ tư, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với các luật, pháp lệnh vừa được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành; tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tố tụng hình sự của các nước phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

          II. NHỮNG CÔNG VIỆC CHÍNH ĐÃ TRIỂN KHAI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN BLTTHS
           1. Thành lập và kiện toàn Ban soạn thảo, Tổ biên tập, Tổ chuyên gia. Đến nay, đã tổ chức 06 phiên họp của Ban soạn thảo, nhiều lần xin ý kiến Ban soạn thảo bằng văn bản hoặc lấy phiếu xin ý kiến.
          2. Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 tại 10 bộ, ngành hữu quan dưới nhiều hình thức (tổ chức hội nghị, thành lập các đoàn khảo sát, xây dựng báo cáo tổng kết…).
          3. Nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 2013 về cải cách tư pháp nói chung và đổi mới, cải cách trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng.
           4. Rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2013 và đề xuất pháp điển hóa vào Dự án BLTTHS những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp.
         5. Rà soát các điều ước quốc tế mà Việt Nam cam kết hợp tác trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm và đề xuất nội luật hóa trong Dự án BLTTHS.
        6. Biên dịch và tham khảo Luật tố tụng hình sự của nhiều nước đại diện cho các mô hình TTHS (Trung Quốc, Nga, Đức, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore…); tổ chức các đoàn công tác ra nước ngoài nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm.
          7. Nghiên cứu nhiều đề án, đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ phục vụ xây dựng Dự án Bộ luật.
         8. Phân công cho 7 Bộ, Ngành trong Ban soạn thảo trực tiếp soạn thảo các chương, các phần, sau đó gửi về Viện kiểm sát nhân dân tối cao để tổng hợp và đưa ra thảo luận chung.
        9. Tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm trong nước và quốc tế bàn về những định hướng lớn sửa đổi BLTTHS, về từng chương, từng điều với sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn.
         III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BLTTHS
Dự thảo BLTTHS được xây dựng gồm 8 phần, 36 chương, 476 điều (trong đó, có: 286 điều sửa đổi, 142 điều bổ sung mới, giữ nguyên 48 điều và bỏ 12 điều). Cụ thể như sau:
         1. Về khung kết cấu của BLTTHS
        Nhằm bảo đảm sự hợp lý về bố cục và phù hợp với sự phân chia giai đoạn tố tụng, Dự thảo đề xuất hoàn thiện khung kết cấu của BLTTHS theo hướng:
       - Tách chương quyết định việc truy tố khỏi phần khởi tố, điều tra vụ án hình sự để xây dựng thành một phần độc lập (Phần thứ ba: Truy tố).
       - Ghép phần xét xử sơ thẩm và phần xét xử phúc thẩm thành một phần (Phần thứ tư: xét xử vụ án hình sự). 
       - Bổ sung 10 chương mới và sắp xếp vào các phần tương ứng của Dự thảo.
            2. Về những quy định chung của BLTTHS (Phần thứ nhất)
         - Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS để phù hợp với các yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 như: bổ sung người tố giác tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản (Điều 7); làm rõ hơn quyền được bảo đảm an toàn, bí mật riêng tư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (Điều 8); cụ thể hóa yêu cầu của nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 9); bổ sung quyền bào chữa của người bị bắt (Điều 11); quy định nguyên tắc xét xử một Thẩm phán đối với những vụ án thực hiện theo thủ tục rút gọn (Điều 15, 17); bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng, công bằng trong xét xử (Điều 20). Sửa một số nguyên tắc để thể hiện yêu cầu phân định hợp lý quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cho phù hợp với các chức năng cơ bản của TTHS như: không quy định Tòa án thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án (Điều 13); bổ sung thẩm quyền miễn truy tố của Viện kiểm sát (Điều 24). Điều chỉnh lại tên và nội dung một số nguyên tắc nhằm bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ.
          - Thứ hai, thể chế hóa yêu cầu của cải cách tư pháp về tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Dự thảo sửa theo hướng: đối với những thẩm quyền tố tụng quan trọng, có tính chất đóng, mở một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân giao cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; những thẩm quyền nhằm phát hiện, làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên quyết định, trừ thẩm quyền quyết định thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định, định giá tài sản, truy nã bị can, bị cáo; tăng thẩm quyền cho Thẩm phán được quyết định áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, cấp và thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa. Mở rộng diện người tiến hành tố tụng đối với Trợ lý điều tra viên, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên để phù hợp với thực tiễn, đồng thời, tăng cường trách nhiệm của các chủ thể này trong quá trình giải quyết vụ án. Bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; quy định chức danh Trợ lý điều tra trong các cơ quan này và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Trợ lý điều tra nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thời gian qua.
          - Thứ ba, thể chế hóa yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Dự thảo bổ sung một số quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như: quyền được nhận các quyết định tố tụng; đưa ra chứng cứ; yêu cầu triệu tập người làm chứng; đọc, ghi chép và sao chụp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra; bị cáo được hỏi những người tham gia tố tụng nếu được chủ tọa đồng ý... Quy định người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ bằng việc gặp, hỏi người bị hại, người làm chứng và những người biết về vụ án hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Quy định người bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
          - Thứ tư, nhằm bảo đảm tính chặt chẽ và thống nhất trong việc quy định các biện pháp tố tụng liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân, Dự thảo thu hút toàn bộ các biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS để điều chỉnh chung trong chương VI và đặt lại tên chương là (Những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự) và bố cục thành hai mục (Mục I: Những biện pháp ngăn chặn, Mục II: Những biện pháp cưỡng chế khác). Quy định cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam. Bổ sung thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền. Quy định chế tài phạt tiền áp dụng đối với người bảo lĩnh nếu vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh. Đối với biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, sửa theo hướng chỉ cho phép đặt tiền nhằm kịp thời áp dụng biện pháp này trong thực tiễn. Bổ sung thẩm quyền bắt khẩn cấp, tạm giữ cho một số chủ thể thuộc Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư thực hiện nhiệm vụ ở khu vực biên giới, hải đảo, xa cơ quan điều tra chuyên trách.
            - Thứ năm, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của người bị buộc tội, Dự thảo xây dựng một chương mới gồm 13 điều quy định về bào chữa với những nội dung sửa đổi, bổ sung như: ngoài người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền bào chữa như hiện hành, bổ sung người bị bắt có quyền bào chữa để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013; mở rộng diện người bào chữa đối với Trợ giúp viên pháp lý; mở rộng trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa đối với bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có hình phạt tù chung thân; bổ sung quy định về tiêu chuẩn đối với bào chữa viên nhân dân; quy định cụ thể các thủ tục mời, cử, chỉ định người bào chữa, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa và các cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, cũng như trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo đảm quyền của người bào chữa.
            - Thứ sáu, nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, Dự thảo xây dựng một chương mới quy định cụ thể về: quyền yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; các nguyên tắc, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và một số nội dung liên quan.
            3. Về khởi tố, điều tra vụ án hình sự (Phần thứ hai)
- Thứ nhất, nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập của thực tiễn, Dự thảo sửa theo hướng quy định cụ thể thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đồng thời, về bố cục, tách rành mạch thành hai mục (Mục I: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Mục II: Khởi tố vụ án hình sự).
          - Thứ hai, làm rõ một số khái niệm như “tố giác về tội phạm”, “tin báo về tội phạm”, “kiến nghị khởi tố”. Quy định cụ thể các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết và thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Sửa thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối đa là 4 tháng thay vì 2 tháng như hiện hành. Bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyền và nghĩa vụ của người bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Kết thúc việc kiểm tra, xác minh, ngoài việc ban hành quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án như hiện hành, bổ sung quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn. Bổ sung thời hạn phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối đa không quá một tháng. Quy định Hội đồng xét xử chỉ thực hiện quyền kiến nghị khởi tố, không trực tiếp khởi tố vụ án. Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động này.
          - Thứ ba, nhằm giảm số lượng vụ án do cơ quan tố tụng cấp trung ương thụ lý, để cấp này tập trung nhiều hơn cho công tác chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra cấp dưới, Dự thảo sửa theo hướng Cơ quan điều tra cấp trung ương chỉ điều tra những vụ án về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc những vụ án liên quan đến nhiều tỉnh hoặc những vụ án về tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Mở rộng diện cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đối với lực lượng Kiểm ngư, Thuế. Rút ngắn thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra cho phù hợp với sự điều chỉnh thời hạn xác minh tố giác, tin báo về tội phạm. Quy định cụ thể thủ tục Cơ quan điều tra cấp trên rút vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra cấp dưới đang tiến hành điều tra. Bổ sung và quy định cụ thể một số biện pháp điều tra để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn (như: nhận dạng qua giọng nói, khai quật tử thi). Bổ sung bảy điều luật để quy định cụ thể về thủ tục định giá tài sản. Bổ sung trường hợp tạm đình chỉ điều tra khi bị can bị mắc bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hoặc khi đã yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả tương trợ nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn.
           - Thứ tư, thể chế hóa chủ trương của Đảng về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra và bảo đảm Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Dự thảo quy định theo hướng: 1) Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận được phải chuyển ngay đến Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền. Tuy nhiên, khi phát hiện việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, Viện kiểm sát trực tiếp thực hiện việc kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; 2) Bổ sung trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án khi trực tiếp xác minh tố giác, tin báo về tội phạm mà phát hiện có dấu hiệu tội phạm; 3) Bên cạnh trường hợp chuyển vụ án trên cơ sở đề nghị của Cơ quan điều tra như hiện hành, bổ sung trường hợp Viện kiểm sát phải chủ động ra quyết định chuyển vụ án khi phát hiện việc điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không đúng thẩm quyền; 4) Quy định quyền yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp chứng cứ, tài liệu bổ sung để phê chuẩn các lệnh, quyết định bảo đảm có căn cứ, đúng pháp luật và quy định cụ thể thời hạn Cơ quan điều tra cung cấp bổ sung chứng cứ, tài liệu cho Viện kiểm sát; 5) Quy định cụ thể những trường hợp Viện kiểm sát phải trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc khi phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật. 6) Ngoài những trường hợp có thể hỏi cung khi xét thấy cần thiết như Bộ luật hiện hành, bổ sung những trường hợp Kiểm sát viên phải tiến hành hỏi cung khi bị can kêu oan, bị can khiếu nại về hoạt động điều tra hoặc khi có căn cứ xác định Điều tra viên vi phạm pháp luật khi hỏi cung bị can. 7) Ngoài các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi bắt buộc phải có mặt Kiểm sát viên như hiện hành, bổ sung trách nhiệm của Kiểm sát viên phải có mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra. 8) Bổ sung trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc phê chuẩn việc thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
           4. Về quyết định việc truy tố (Phần thứ ba)
           - Thứ nhất, nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn do cách quy định khái quát của Bộ luật hiện hành và để phù hợp với sự phân chia giai đoạn tố tụng, Dự thảo sửa theo hướng tách các nội dung liên quan đến truy tố khỏi phần thứ hai và xây dựng thành phần thứ ba với 3 chương (Chương những quy định chung; Chương quyết định truy tố bị can, miễn truy tố bị can; Chương trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án). Đồng thời, quy định cụ thể các trình tự, thủ tục, thời hạn tố tụng trong giai đoạn này.
           - Thứ hai, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố. Bổ sung quy định nhằm xác định rõ thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát; các trường hợp Viện kiểm sát tiến hành một số hoạt động điều tra; các trường hợp tách vụ án.
             - Thứ ba, quy định thẩm quyền miễn truy tố của Viện kiểm sát; các trường hợp miễn truy tố; đồng thời, bổ sung các quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện thẩm quyền này, tránh lạm dụng.
              5. Về xét xử vụ án hình sự và xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Phần thứ tư và Phần thứ sáu)
              - Thứ nhất, thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp, Dự thảo quy định thẩm quyền tố tụng của 4 cấp Tòa án, Viện kiểm sát. Ghép phần xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm thành một phần (Phần thứ tư: xét xử vụ án hình sự), nhằm tạo điều kiện tách các quy định có tính chất chung cho cả xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm để điều chỉnh chung trong Chương những quy định chung về xét xử, tránh trùng lặp.
             - Thứ hai, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử công bằng, Dự thảo bổ sung điều luật quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa. Bổ sung cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa có quyền yêu cầu Tòa án triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa. Quy định chặt chẽ những trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo, người bào chữa, đồng thời, bổ sung quy định cho phép bị cáo, bị hại có quyền đặt câu hỏi với những người tham gia tố tụng khác nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện hành. Đổi mới trình tự xét hỏi theo hướng không quy định trong Bộ luật ai hỏi trước, ai hỏi sau mà do Hội đồng xét xử quyết định căn cứ vào đặc điểm cụ thể của từng vụ án. Bỏ quy định khống chế tối đa hai Kiểm sát viên tham gia phiên tòa; quy định cụ thể trách nhiệm xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Quy định rõ bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
            - Thứ ba, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, Dự thảo bổ sung một số thời hạn nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải bị ràng buộc về thời hạn; cụ thể hóa một số thời hạn có tính định tính trong Bộ luật hiện hành (ví dụ: gửi ngay) bằng các thời hạn cụ thể.
             - Thứ tư, nhằm tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát, tăng tính minh bạch của hoạt động xét xử, Dự thảo quy định cụ thể nội dung của bản án, quyết định và các văn bản tố tụng ban hành trong giai đoạn này; quy định rõ trách nhiệm giao, gửi các văn bản, quyết định tố tụng cho những người tham gia tố tụng, mở rộng diện chủ thể được nhận các bản án, quyết định của Tòa án gồm cả bị hại, cơ quan thi hành án dân sự, Trại tạm giam, trại giam nơi đang giam giữ bị cáo; bổ sung và quy định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử và bổ sung các quy định để Viện kiểm sát thực hiện tốt trách nhiệm kiểm sát xét xử. Quy định bắt buộc phải ghi âm, ghi hình diễn biến phiên tòa.
            - Thứ năm, nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, Dự thảo cụ thể hóa các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung trên cơ sở pháp điển hóa quy định của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 27/8/2010. Bổ sung trường hợp hoãn phiên tòa khi cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa hoặc khi Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Sửa các quy định về quyền kháng cáo, phạm vi kháng cáo, trách nhiệm của Tòa án trong việc tiếp nhận và giải quyết kháng cáo. Bổ sung thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc hủy, sửa bản án sơ thẩm và quy định cụ thể các thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm thay vì cách dẫn chiếu sang thủ tục sơ thẩm như hiện hành, vừa không cụ thể, vừa không chính xác. Quy định chặt chẽ, chính xác căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Bổ sung các quy định nhằm làm rõ trách nhiệm của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám đốc, kiểm sát việc xử. Quy định Hội đồng giám đốc chỉ xem xét vụ án trong phạm vi kháng nghị, nếu có căn cứ có thể xem xét những nội dung khác không bị kháng nghị nhưng không được làm xấu đi tình trạng của người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác. Ngoài ba thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong Bộ luật hiện hành, bổ sung thẩm quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa cho đồng bộ với thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm dân sự, hành chính.
                 6. Về thi hành án hình sự (Phần thứ năm)
              Để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của BLTTHS, phân định hợp lý ranh giới điều chỉnh giữa BLTTHS với Luật thi hành án hình sự, Dự thảo đề xuất sửa theo hướng tiếp tục giữ thi hành án là một phần của BLTTHS. Trong phần này, chỉ điều chỉnh những vấn đề như: xác định những bản án và quyết định được thi hành; thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án; thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành; xoá án tích. Đồng thời, nhằm đề cao tính hướng thiện trong xử lý người phạm tội, khắc phục tối đa thiệt hại do tội phạm gây ra, đổi mới tư duy trong xử lý tội phạm và áp dụng hình phạt, Dự thảo bổ sung bốn điều luật để quy định cụ thể về điều kiện, thẩm quyền, thủ tục miễn chấp hành hình phạt tù còn lại có điều kiện. Đây cũng là kinh nghiệm trong Luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới. Các quy định liên quan đến thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thi hành án hình sự.
            7. Thủ tục đặc biệt (Phần thứ bảy)
            - Thứ nhất, ngoài bốn thủ tục đặc biệt trong Bộ luật hiện hành, bổ sung thủ tục bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để kịp thời bảo vệ họ khi có nguy cơ bị đe dọa tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
             - Thứ hai, sửa thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên theo hướng không chỉ áp dụng với người chưa thành niên là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hiện hành mà còn áp dụng với người chưa thành niên là người bị hại, người làm chứng. Sửa đổi, bổ sung thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trên cơ sở nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp điển hóa quy định tại Thông tư liên tịch số 01 ngày 12/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên nhằm bảo đảm tính cụ thể của thủ tục này.
           - Thứ ba, quy định cụ thể trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong từng giai đoạn tố tụng; sửa một số quy định cụ thể nhằm phù hợp với Luật thi hành án hình sự và Luật giám định tư pháp.
           - Thứ tư, sửa thủ tục rút gọn theo hướng quy định bắt buộc áp dụng thủ tục này khi có đủ điều kiện luật định trong tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm thay cho tùy nghi áp dụng và chỉ đến giai đoạn sơ thẩm như hiện nay. Bổ sung điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn bắt buộc phải có sự đồng ý của bị can, bị cáo. Mở rộng việc áp dụng thủ tục rút gọn cả với tội nghiêm trọng chứ không chỉ với tội ít nghiêm trọng như hiện hành. Điều chỉnh thời hạn điều tra, truy tố, xét xử, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn để tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn và tăng tính khả thi của việc áp dụng thủ tục này. Theo đó, tổng thời hạn điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử sơ thẩm là 35 ngày thay vì 23 ngày như hiện hành. Lược bớt một số thủ tục tố tụng cụ thể nhằm phù hợp với tính chất của thủ tục rút gọn và đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án.
             - Thứ năm, nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn quyền của người khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, Dự thảo sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể hơn trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan tố tụng trong hoạt động này. Bổ sung quyền của người khiếu nại được thông qua người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp để khiếu nại. Rút ngắn thời hạn giải quyết tố cáo từ 60 ngày xuống còn 30 ngày; bổ sung thời hạn người khiếu nại tiếp tục khiếu nại nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu là 3 ngày.
              8. Về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự (Phần thứ tám)
            Để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của BLTTHS và tránh trùng lắp với Luật tương trợ tư pháp, Phần hợp tác quốc tế chỉ điều chỉnh những vấn đề liên quan trực tiếp đến trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong giải quyết vụ án hình sự như: phạm vi hợp tác quốc tế trong TTHS; các  nguyên tắc hợp tác quốc tế trong TTHS; áp dụng pháp luật; tiếp nhận, chuyển giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; giá trị pháp lý của chứng cứ thu thập được qua hợp tác quốc tế; các biện pháp ngăn chặn để bảo đảm việc xem xét yêu cầu và thực hiện dẫn độ…


             IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỚN CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU
           1. Về tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (Điều 36, 40, 42)
          - Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị sửa theo hướng các quyết định tố tụng nhằm phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, trừ thẩm quyền quyết định thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, truy nã bị can, bị cáo vì liên quan đến kinh phí, liên quan đến nhiều tỉnh, thậm chí liên quan đến quốc tế.
           - Loại ý kiến thứ hai: đề nghị sửa theo hướng mọi quyết định tố tụng nhằm phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.
           - Loại ý kiến thứ ba: đề nghị không nên tăng quyền một cách đồng đều mà tăng quyền cần gắn với thứ bậc sơ cấp, trung cấp, cao cấp.
           - Ban soạn thảo có ý kiến như sau: tăng thẩm quyền cho những người trực tiếp tiến hành tố tụng là chủ trương quan trọng của cải cách tư pháp, được đề ra trong các nghị quyết của Đảng nhằm nâng cao trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Việc phân định thẩm quyền như loại ý kiến thứ ba có điểm chưa phù hợp với thực tiễn vì hiện nay, mỗi Viện kiểm sát, Tòa án cấp huyện chỉ có 01 Kiểm sát viên, Thẩm phán trung cấp, đồng thời đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng, Chánh án huyện. Trên cơ sở đó, đa số thành viên Ban soạn thảo đồng tình với loại ý kiến thứ nhất và thể hiện tại các điều 36, 40, 42 Dự thảo.
           2. Về mở rộng diện người tiến hành tố tụng đối với Trợ lý điều tra viên, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên (Điều 36, 40, 45)
         - Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị mở rộng diện người tiến hành tố tụng đối với Trợ lý điều tra viên, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên và quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể này để phù hợp với thực tiễn hiện nay.
           - Loại ý kiến thứ hai: đề nghị không nên mở rộng diện người tiến hành tố tụng đối với các chủ thể này vì chỉ giữ vai trò là người giúp việc cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Việc mở rộng diện người tiến hành tố tụng có thể dẫn đến tăng biên chế cho các cơ quan tố tụng.
          - Ban soạn thảo có ý kiến như sau: Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 cho thấy, công tác điều tra, truy tố, xét xử thời gian qua thu được những kết quả quan trọng là có sự đóng góp tích cực của đội ngũ cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, do không quy định họ được tiến hành một số hoạt động tố tụng nên có những hoạt động tố tụng đơn giản cũng phải do Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trực tiếp thực hiện mới có giá trị pháp lý. Việc bổ sung diện người tiến hành tố tụng đối với các chủ thể này sẽ không làm phát sinh biên chế vì hiện nay lực lượng này đang giúp việc cho những người tiến hành tố tụng. Trên cơ sở đó, Ban soạn thảo đồng tình với loại ý kiến thứ nhất và thể hiện tại các điều 36, 40, 45 Dự thảo.
          3. Về quyền im lặng của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 52, 53, 54, 55)
          - Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị cần giữ cách quy định như BLTTHS hiện hành “người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, đưa ra ý kiến”. Việc trình bày lời khai, đưa ra ý kiến được quy định là quyền mà không phải là nghĩa vụ của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, do đó, họ có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền này.
          - Loại ý kiến thứ hai cho rằng, để phù hợp với yêu cầu mới của Hiến pháp, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, cần sửa BLTTHS theo hướng người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền im lặng. Tuy nhiên, về kỹ thuật lập pháp cần thể hiện để phù hợp với văn phong pháp lý.
           - Ban soạn thảo nhận thấy: đây là vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau, do vậy trình bày hai phương án để thảo luận (Phương án 1: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, đưa ra ý kiến; Phương án   2: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, đưa ra ý kiến hoặc từ chối trình bày lời khai, đưa ra ý kiến).
            4. Về quyền của bị can đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra (Điều 54)
          - Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: Hiến pháp năm 2013 quy định người bị buộc tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Do đó, nếu bị can không có điều kiện thuê luật sư bào chữa thì phải được quyền đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra.
       - Loại ý kiến thứ hai đề nghị: không quy định quyền này cho bị can vì quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, nhất là với bị can đang bị tạm giam, nhiều trường hợp có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của hồ sơ vụ án.
       -  Đa số thành viên Ban soạn thảo: tán thành với loại ý kiến thứ nhất. BLTTHS có trách nhiệm quy định cụ thể cách thức bị can thực hiện quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu để một mặt bảo đảm quyền bào chữa của họ, đồng thời, bảo đảm sự an toàn của hồ sơ vụ án.
           5. Về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam (Điều 97)
           - Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: để tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua có đối tượng phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ 2 năm tù trở xuống nhưng bỏ trốn và bị bắt lại theo lệnh truy nã nhưng sau đó không thể tạm giam họ vì luật không cho phép, cần sửa theo hướng cơ bản giữ như quy định hiện hành nhưng thay quy định “đối với tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm” bằng quy định “đối với tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù”. Đồng thời, làm rõ những trường hợp được coi là cản trở điều tra, truy tố, xét xử để áp dụng tạm giam đối với tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù.
         - Loại ý kiến thứ hai: đề nghị giữ như quy định tại Điều 88 BLTTHS năm 2003 nhưng quy định cụ thể những trường hợp được coi là cản trở điều tra, truy tố, xét xử để quyết định áp dụng tạm giam đối với bị can, bị cáo bị điều tra, truy tố, xét xử về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm.
         -  Ban soạn thảo nhận thấy: đây là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau, do vậy trình bày hai phương án để thảo luận.
            6. Về trình tự xét hỏi (Điều 300)
            - Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: để phù hợp với nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử, đề nghị không quy định trong Bộ luật ai hỏi trước, ai hỏi sau mà do Hội đồng xét xử quyết định căn cứ vào đặc điểm cụ thể của từng vụ án.
             - Loại ý kiến thứ hai đề nghị: đổi mới trình tự xét hỏi theo hướng: trường hợp bị cáo đồng ý với cáo trạng của Viện kiểm sát thì Hội đồng xét xử có trách nhiệm hỏi để thẩm tra các chứng cứ, tài liệu làm căn cứ cho việc kết tội bị cáo; trường hợp bị cáo không đồng ý với cáo trạng của Viện kiểm sát thì Chủ tọa đề nghị Kiểm sát viên hỏi để chứng minh quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, sau đó đến người bào chữa hỏi về các tình tiết liên quan đến việc gỡ tội cho bị cáo, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự; các thành viên Hội đồng xét xử chỉ hỏi khi còn những vấn đề chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
            - Đa số thành viên Ban soạn thảo: đồng tình với loại ý kiến thứ nhất và thể hiện tại Điều 300 Dự thảo (Phương án 1).
             7. Về thẩm quyền khởi tố của Tòa án (Điều 13, 161)
             - Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: để phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án, bảo đảm tính khách quan của hoạt động xét xử, đề nghị không quy định Tòa án có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
              - Loại ý kiến thứ hai cho rằng: cần tiếp tục giữ thẩm quyền khởi tố của Tòa án như quy định của BLTTHS hiện hành.
             - Ban soạn thảo có ý kiến như sau: một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra đối với việc sửa đổi BLTTHS là phải phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể, bảo đảm phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử). Khởi tố vụ án là trách nhiệm của cơ quan buộc tội, Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện việc buộc tội, do đó, không nên tiếp tục quy định Tòa án có trách nhiệm khởi tố vụ án. Nếu qua hoạt động xét xử mà phát hiện tội phạm và người phạm tội cần phải điều tra thì Tòa án thực hiện quyền kiến nghị Viện kiểm sát khởi tố. Quy định như vậy một mặt phù hợp với sự phân định các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đồng thời, bảo đảm tính khách quan của hoạt động xét xử. Đây cũng là kinh nghiệm lập pháp của nhiều nước trên thế giới và là ý kiến của hầu hết các đại biểu trong quá trình thảo luận Dự án BLTTHS. Trên cơ sở đó, đa số thành viên Ban soạn thảo đồng tình với loại ý kiến thứ nhất và thể hiện tại Điều 13, Điều 161 Dự thảo (phương án 1).
             8. Về giới hạn xét xử (Điều 291)
              - Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị sửa theo hướng Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.
             - Loại ý kiến thứ hai: đề nghị sửa theo hướng Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố.
            - Ban soạn thảo có ý kiến như sau: việc đặt ra giới hạn xét xử là để phù hợp với sự phân định các chức năng của tố tụng hình sự (buộc tội, bào chữa, xét xử). Tòa án chỉ xét xử khi có truy tố của Viện kiểm sát và chỉ xét xử trong phạm vi truy tố của Viện kiểm sát. Tham khảo BLTTHS các nước đều theo hướng này, đồng thời quy định rất linh hoạt để xử lý các tình huống tại phiên tòa. Liên bang Nga quy định Tòa án chỉ xét xử trên cơ sở truy tố của Viện kiểm sát, việc xét xử khác với nội dung cáo trạng chỉ được phép nếu không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và không ảnh hưởng đến quyền bào chữa của họ. CHLB Đức quy định Tòa án chỉ xét xử dựa trên cáo trạng của Viện Công tố và không được phép tuyên bị cáo về tội nặng hơn tội nêu trong cáo trạng; tuy nhiên, nếu phát sinh những tình tiết mới mà cáo trạng chưa đề cập thì Tòa án có thể xem xét nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Do vậy, để phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và phù hợp với thực tiễn, đa số thành viên Ban soạn thảo đồng tình với loại ý kiến thứ nhất và thể hiện tại Điều 291 Dự thảo (Phương án 1).
              9. Về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Điều 385)
           - Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị không bổ sung thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
             - Loại ý kiến thứ hai: cần quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
               - Ban soạn thảo có ý kiến như sau: Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” (Điều 103). Do đó, nếu giao cho Hội đồng giám đốc thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, tức là giao cho cấp này thẩm quyền xét xử. Như vậy, phải bổ sung các thủ tục tố tụng tương tự như xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm (thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án…), bổ sung các quy định để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo để thực hiện đúng nguyên tắc “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa”. Đây là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau, do vậy, Ban soạn thảo trình bày hai phương án để thảo luận (Điều 385).
              10. Về sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa (Điều 288)
             - Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị quy định Điều tra viên có mặt tại phiên tòa trong trường hợp có người tham gia tố tụng khai bị ép cung, bức cung, dùng nhục hình, trong giai đoạn điều tra.
             - Loại ý kiến thứ hai: đề nghị không quy định sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa.
            - Ban soạn thảo có ý kiến như sau: thực tiễn xét xử thời gian qua, nhiều trường hợp Hội đồng xét xử mời Điều tra viên tham gia phiên tòa. Sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa đã góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, làm căn cứ cho việc Tòa án ra bản án, quyết định đúng pháp luật, tăng tính minh bạch của các hoạt động tố tụng. Tham khảo Luật tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới cho thấy đều quy định việc tham gia của Điều tra viên tại phiên tòa. Trên cơ sở đó, Dự thảo bổ sung quy định về sự tham gia của Điều tra viên tại phiên tòa. Việc mời Điều tra viên do Hội đồng xét xử quyết định căn cứ vào yêu cầu cụ thể của từng vụ án.  
              11. Về việc luật hóa các biện pháp điều tra đặc biệt (Chương XIXa)
            - Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị luật hóa các biện pháp điều tra đặc biệt trong BLTTHS nhằm đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật…”. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết các quốc gia đều thể chế biện pháp điều tra đặc biệt trong BLTTHS và quy định rất chặt chẽ căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, thủ tục và thời hạn tiến hành, đặc biệt đều cho phép sử dụng các kết quả thu được từ hoạt động này làm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Sự khác nhau giữa luật các nước chủ yếu liên quan đến số lượng các biện pháp được áp dụng, tên gọi của các biện pháp và kỹ thuật thể hiện trong luật để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
             - Loại ý kiến thứ hai: đề nghị không quy định nội dung này trong BLTTHS.
             - Ban soạn thảo có ý kiến như sau: Đây là 1 trong 17 vấn đề lớn của Dự án BLTTHS đã được đưa ra lấy ý kiến Ban soạn thảo bằng hình thức lấy Phiếu xin ý kiến. Kết quả tổng hợp Phiếu lấy ý kiến cho thấy, hầu hết thành viên Ban soạn thảo đề nghị cần thiết quy định các biện pháp điều tra đặc biệt trong Dự án BLTTHS để phúc đáp yêu cầu mới của Hiến pháp, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân và tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm thời gian qua. Tuy nhiên, về kỹ thuật thể  hiện trong Dự thảo cần tính toán kỹ nhằm phát huy hiệu quả của các biện pháp này. Trên cơ sở đó, tại Chương XIXa, Phương án 2, Dự thảo đề xuất xây dựng 4 điều luật để quy định về các biện pháp điều tra đặc biệt: (i) Điều kiện áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt; (ii). Thẩm quyền áp dụng; (iii). Thời hạn áp dụng; (iv). Việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng việc áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt). Các thủ tục và tác nghiệp cụ thể khi tiến hành các biện pháp điều tra đặc biệt do văn bản dưới luật quy định.
              Trên đây là Báo cáo những nội dung cơ bản đề xuất sửa đổi, bổ sung BLTTHS và một số vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau. Ban soạn thảo trân trọng báo cáo để xin ý kiến của nhân dân, các ngành, các cấp đóng góp ý kiến, bảo đảm chất lượng của Dự án BLTTHS (sửa đổi).

                                           BAN SOẠN THẢO DỰ ÁN BLTTHS (SỬA ĐỔI)

Lên đầu trang