30/10/24 09:04

Thông báo rút kinh nghiệm Quý III/2024 về kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổng hợp các dạng vi phạm dẫn đến Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm tuyên hủy để các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nghiên cứu, rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự. Cụ thể:

1. Vi phạm về thủ tục tố tụng; chưa giải quyết hết yêu cầu của đương sự; chưa xem xét đánh giá hết chứng cứ.

Vụ án: “Tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa:  Nguyên: Bà Nguyễn Thị P và  Bị đơn: Ông Phạm Văn Đ.

1.1. Nội dung vụ án:
Vào ngày 21/7/2010, bà Nguyễn Thị P có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng của ông Hồ Văn M (qua hợp đồng ủy quyền giữa bà Lương Thị S và ông Hồ Văn M số công chứng 126, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐCN ngày 17/6/2010) đối với thửa đất số 180 tờ bản đồ số 03 diện tích 1.112m2 có 400m2 đất thổ cư, còn lại là đất nông nghiệp tọa lạc tại xã An Ngãi, huyện Long Điền, số tiền nhận chuyển nhượng là 400.000.000 đồng, hợp đồng chuyển nhượng được ký tại Văn phòng Công chứng số 2 tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu số công chứng 1243, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 21/7/2010, bà P đã giao đủ tiền cho ông M và ông M giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bà P thực hiện thủ tục sang tên theo quy định. Ngày 04/01/2011 bà P nộp hồ sơ chuyển nhượng tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện để thực hiện việc sang tên, bà P đã thực hiện đóng thuế đầy đủ theo quy định và được hẹn ngày 19/01/2011. Tuy nhiên, ông Đ có đơn ngăn chặn nên bà P chưa nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại thời điểm nhận chuyển nhượng, bà P có vào xem đất và biết có 01 căn nhà trên đất của bà S, ông  M nói với bà P là cho bà bác ở nhờ, sau khi sang tên xong thì họ sẽ dọn đi. Sau đó bà P có nhu cầu sử dụng đất thì con bà S là ông Đ không đồng ý giao trả. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu gia đình ông Đ di dời tài sản trả lại thửa đất số 180 tờ bản đồ số 03 diện tích 1.112m2 cho nguyên đơn.

Bị đơn ông Phạm Văn Đ trình bày:

Ông Đ là con ruột của bà Lương Thị S, ngoài ông Đ ra bà S không còn người con nào khác. Bà S chết ngày 12/10/2010.Thửa đất số 104 (cũ 180) tờ bản đồ số 21 (cũ 3) huyện …. là tài sản của bà S đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSD đất với diện tích 1.112m2. Năm 2010, do cần tiền chữa bệnh cho con nên ông Đ có xin bà S cho bán 01 phần đất có diện tích ngang 15m, dài 27m. Ngày 06/7/2010 ông Đ thỏa thuận với ông M diện tích đất nêu trên bán với giá 160.000.000đồng, ông M đặt cọc trước cho ông Đ 20.000.000 đồng (đưa tại quán cà phê), sau đó đến 49 ngày của bà S thì bà Ng là chị ruột của ông M đưa thêm 10.000.000 đồng tiền cọc, tổng cộng là 30.000.000 đồng. Ông M hứa số tiền còn lại khi nào công chứng xong sẽ trả, nhưng đến nay ông Đ chưa nhận thêm bất kỳ khoản tiền nào khác. Bản chính giấy chứng nhận QSD đất đã giao cho bà Ng để làm thủ tục tách thửa. Hiện nay trên đất có 03 căn nhà cấp 4, gồm: Ông Đ 01 căn; 02 người con ông Đ (bà M và bà T) mỗi người 01 căn và 01 ngôi mộ của cha ông Đ. Nay, ông Đ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Đ có yêu cầu phản tố như sau:

+ Yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng ủy quyền số 126, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD giữa bà S và ông M ngày 17/6/2010 tại Văn phòng công chứng, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Do có sự lừa dối và việc ký hợp đồng không đảm bảo theo quy định của pháp luật.

+ Yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 1234, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 21/7/2010 do Phòng công chứng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chứng thực, giữa bà S - Người đại diện theo ủy quyền và ông M với bà Ph đối với thửa đất số 180 tờ bản đồ số 03 (nay là thửa đất số 104 tờ bản đồ số 21) tọa lạc tại huyện …, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, có diện tích 1,112m2.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông M trình bày:

Ông M nhận chuyển nhượng của bà S thửa đất nêu trên với giá 500.000.000 đồng thông qua Hợp đồng ủy quyền, ông M đã giao hết tiền cho bà S tại Văn phòng công chứng, trên đất có 01 căn nhà và 01 ngôi mộ, ông M cho bà S tiếp tục sinh sống trên đất đến khi nào cần thì sẽ báo để bà S giao lại, việc thỏa thuận này không lập thành văn bản. Ngày 21/7/2010, tại Phòng công chứng ông M ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Ph, thực chất là ông M vay bà Ph 200.000.000 đồng trong thời hạn 30 ngày, lãi suất 32.000.000đồng, hai bên thỏa thuận sau khi trả đủ tiền gốc thì bà Ph chuyển nhượng đất lại cho ông M. Khi ký chuyển nhượng giữa ông M và bà Ph thì không có mặt bà S. Đến hạn ông M trả tiền cho bà Ph, nhưng bà Ph yêu cầu giao 500.000.000đồng mới trả bản chính sổ đỏ, ông M không đồng ý, bà Ph dọa sẽ sang tên và chuyển nhượng cho người khác, nên ngày 07/3/2011 ông M đã làm đơn ngăn chặn. Việc thỏa thuận giữa ông M và bà Ph không lập thành văn bản, việc ông M vay bà Ph 200.000.000 đồng bà Ph có viết giấy tay nhưng không đưa lại cho ông M nên ông M không có để cung cấp cho Tòa án.

Về “Hợp đồng mua bán nhà đất” lập ngày 06/7/2010 do chị gái ông M và bà Ng viết giúp, do thấy thương cho hoàn cảnh nhà ông Đ khó khăn, con đông, không còn chỗ ở nào khác nên ông M hứa sau khi lấy lại được sổ đỏ từ bà Ph thì sẽ cho lại vợ chồng ông Đ 15m ngang (1/2 chiều ngang đất) để gia đình có chỗ ở, ông M không giao cho ông Đ tiền.

Ông M có yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa ông M và bà Ph; Yêu cầu bà Ph trả lại “sổ đỏ” bản chính cho ông M.

1.2. Quá trình giải quyết vụ án:
* Bản án số ....../2023/DS-ST ngày ...... của Toà án nhân dân huyện tuyên xử:
1.2.1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Ph đối với ông Đ về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất”

1.2.2 Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đ về việc yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng ủy quyền số 126, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD giữa bà S và ông M ngày 17/6/2010 tại Văn phòng công chứng, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Do có sự lừa dối và việc ký hợp đồng không đảm bảo theo quy định của pháp luật và Yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 1234, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 21/7/2010 do Phòng công chứng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu chứng thực, giữa bà S- Người đại diện theo ủy quyền và M với bà Ph đối với thửa đất số 180 tờ bản đồ số 03 (nay là thửa đất số 104 tờ bản đồ số 21) tọa lạc tại huyện…, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, có diện tích 1.112m2.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 22/9/2023, bị đơn ông Đ kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Ngày 26/9/2023 nguyên đơn bà Ph kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Ngày 29/9/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện ban hành Quyết định kháng nghị của theo hướng: Sửa toàn bộ Bản án số 62/2023/DS-ST ngày 15/9/2023 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện VKSND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phát biểu quan điểm đề nghị hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

* Bản án Phúc thẩm …./2024/DS-PT ngày …… của Tòa án nhân dân Tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu tuyên xử: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số …/2023/DS -ST ngày …… của Tòa án nhân dân huyện ……, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện ….., tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm:

Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu phản tố của ông Đ nhưng không thực hiện thủ tục hòa giải đối với yêu cầu phản tố này của ông Đ mà đưa vụ án ra xét xử là không  bảo đảm thủ tục tố tụng. 

Bản án sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đ về việc yêu cầu tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng ủy quyền giữa S và ông M ngày 17/6/2010 do có sự lừa dối và không đảm bảo theo quy định của pháp luật và yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/7/2010 giữa bà S, người đại diện ủy quyền là ông M với bà Ph đối với thửa đất 180, tờ bản đồ 03 (nay là thửa đất số 104, tờ bản đồ số 21) huyện …. diện tích 1.112m2 . Bản án sơ thẩm tuyên ông Đ có nghĩa vụ giao cho bà Ph 2.025.000.000 đồng giá trị đất 15m ngang x 27m dài = 405m2 thửa 180 tờ bản đồ 03. Nhưng án sơ thẩm chưa giải quyết yêu cầu của bà Ph đối với phần diện tích đất còn lại là 707 m2 trong khi bà Ph yêu cầu ông Đ phải trả lại cho bà Ph toàn bộ diện tích 1.112m2   thửa đất 180, tờ bản đồ 03 (nay là thửa đất số 104, tờ bản đồ số 21). Phần yêu cầu đối với diện tích đất là 707m2 nêu trên chưa được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết nên tại cấp phúc thẩm không thể xem xét giải quyết được.

Mặt khác, cần xem xét giải quyết về giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đ với ông M; giữa ông M với bà Ph có liên quan đến quyền sử dụng đất tranh chấp trong vụ án mới đảm bảo giải quyết toàn diện và triệt để vụ án. Đồng thời trong hồ sơ thể hiện ngày 12/10/2010 bà S chết không để lại di chúc, ông Đ trình bày ông Đ là con duy nhất của bà S, trình bày này của ông Đ là chưa đủ căn cứ để xác định; cần xác minh làm rõ về người thừa kế theo pháp luật của bà S để giải quyết vụ án.

Như vậy, Tòa án sơ thẩm chưa thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng, không giải quyết hết yêu cầu của đương sự và xem xét đánh giá chưa hết chứng cứ dẫn đến giải quyết vụ án không toàn diện, triệt để làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, dẫn đến cấp phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm để giải quyết lại. 

2. Vi phạm do xác định không đúng đối tượng bị khởi kiện, chưa làm rõ yêu cầu của các đương sự trong vụ án.

Vụ án: “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đa Tr và Bị đơn: Ông Trần Ngọc Th, sinh năm 1977.

2.1. Nội dung vụ án:
Nguyên đơn ông Nguyễn Đa Tr trình bày: Năm 1992, vợ chồng ông Tr và bà T nhận chuyển nhượng của bà Ng diện tích đất khoảng 12.000m2, nay thuộc thửa 36, tờ bản đồ 21 tại thôn Phước Thành, xã Tân Hòa, thị xã ..., tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngày 25/5/1993 hai bên mới lập giấy bán đất với nội dung bà Ng chỉ tính tiền đối với diện tích 6.000m2, diện tích đất còn lại phía sườn đồi giáp ranh diện tích 6.000m2 bà Ng cho ông Tr không tính tiền. Sau khi nhận chuyển nhượng, ông Tr cho ông D và bà L ở nhờ trên đất.

Tháng 3/1999, ông Tr cho bà Đ là cư sĩ tu tại gia làm chòi lá ở nhờ trên đất. Bà Đ viết giấy cam kết ngày 29/3/1999 với nội dung: “Tôi có xin ở tạm trên đất của ông Tr, ngụ ấp Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Lúc nào chủ đất yêu cầu dời nhà thì tôi dời đi, mà chủ đất không phải bồi thường gì hết, ngoài ra tôi không được bán hoặc nhượng lại cho người khác ở. Nếu tôi làm sai trái với lời cam kết, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
Ngày 30/6/2006, ông Tr được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 287723 đối với diện tích đất đã mua của bà Ng, diện tích ghi nhận trong giấy chứng nhận là 10.005,6m2 thuộc thửa 36, tờ bản đồ 21.Ngày 21/01/2016, ông Tr khởi kiện ông Đ về hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên giữa ông Tr và ông Đ. Trong vụ án này, bà Đ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và thừa nhận là ở nhờ trên đất của ông Tr.

Tháng 6/2019, ông Tr có nhu cầu lấy lại đất thì phát hiện bà Đ đã chết, tài sản trên đất do ông Nh và ông Th quản lý. Ông Tr đã yêu cầu trả đất nhưng ông Nh và ông Th không đồng ý. Do đó, ông Tr khởi kiện yêu cầu Tòa án: Buộc ông Th và ông Phạm Hữu Nh phải tháo dỡ công trình của bà Đ để trả lại thửa đất số 36, tờ bản đồ 21 tọa lạc tại xã Tân Hòa, thị xã …., tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho ông Tr. Ông Tr không bồi thường công trình và không hỗ trợ việc di dời. Ông Nguyễn Đa Tr không không đồng ý với yêu cầu phản tố của ông Th.
Ngày 25/9/2023, ông Tr rút yêu cầu khởi kiện đối với ông Nh do được biết ông Nh đã chết. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông Tr như sau: Buộc ông Th phải tháo dỡ công trình của bà Đ để trả lại thửa đất số 36, tờ bản đồ 21 tọa lạc tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho ông Tr. Ông Nguyễn Đa Tr không bồi thường công trình và không hỗ trợ việc di dời.

Bị đơn ông Trần Ngọc Th trình bày: Năm 1999, ông H tặng cho bà Đ diện tích đất 1.000m2 tại thôn Phước Thành, xã Tân Hòa, thị xã..... Khi tặng cho, ông H có viết giấy nhưng bên nguyên đơn đang giữ nên bị đơn không thể cung cấp cho Tòa án. Bà Đ đã ở trên đất từ năm 1999, chưa được cấp giấy chứng nhận đối với diện tích đất trên nhưng có kê khai nộp thuế và đã được UBND xã Hội Bài cấp sổ thuế nông nghiệp gia đình số 621. Bà Đ đã xây dựng nhà, chánh điện, sân, công trình vệ sinh, dựng các tượng Phật, việc xây dựng không xin phép chính quyền địa phương. Theo ông Th, sau khi ông Tr làm mất giấy chứng nhận và xin cấp lại thì diện tích đất lớn hơn ban đầu là 6.000m2. Diện tích lớn hơn này đã cấp chồng lấn lên diện tích 1.000m2 của bà Đ.

Ngày 19/6/2017, bà Đ đã viết “Giấy đồng ý” với nội dung tặng cho ông Th diện tích đất 1.000m2 của bà Đ. Năm 2018, bà Đ chết. Hiện nay ông Th là người quản lý đất và các tài sản trên đất của bà Đ, ông Nh chỉ là người trông coi giùm, nay đã bỏ đi nơi khác.

Qua đo đạc thực tế xác định đất của bà Đ sử dụng là 1.744,1m2. Ông Th có yêu cầu phản tố như sau:

- Yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất 1.744,1m2 thuộc một phần thửa 36, tờ bản đồ 21 tại thôn Phước Thành, xã Tân Hòa, thị xã …thuộc quyền sử dụng của ông Th.  Chỉnh lý giảm diện tích 1.744,1m2  thuộc một phần thửa 36, tờ bản đồ 21 tại thôn Phước Thành, xã Tân Hòa, thị xã…, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Tr.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn K và ông Trần Văn H trình bày:  Ông K là chồng bà Đ, ông H là con của ông K và bà Đ. Diện tích đất 1.000m2 của bà Đ là do ông H tặng cho. Trước khi chết, bà Đ viết “Giấy đồng ý” ủy quyền cho ông Th đại diện quản lý khu đất. Ông K và ông H đồng ý để ông Th toàn quyền quyết định trong vụ án tranh chấp về khu đất.  

2.2. Quá trình giải quyết vụ án:
* Bản án sơ thẩm số..../2023/DS-ST ngày ........ của Toà án nhân dân thị xã ....... tuyên xử: 

2.2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tr về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bị đơn ông Th:

Buộc ông Th phải tháo dỡ, di dời toàn bộ các công trình nhà, nhà tạm, chánh điện, tượng phật, các công trình phụ và di dời toàn bộ cây trồng trên đất để trả lại diện tích đất 1.744,1m2 thuộc thửa đất 36, tờ bản đồ 21 tại thôn Phước Thành, xã Tân Hòa, thị xã ....., tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho ông Tr, bà T.

2.2.2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Th về việc: 

- Yêu cầu công nhận 1.744,1m2 thuộc thửa đất số 36, tờ bản đồ 21 tại thôn Phước Thành, xã Tân Hòa, thị xã ..., tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc quyền sử dụng của ông Th. Chỉnh lý giảm diện tích 1.744,1m2  thuộc thửa 36, tờ bản đồ 21 tại thôn Phước Thành, xã Tân Hòa, thị xã …, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Tr.
Ngày 06/11/2023 Bị đơn ông Th kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Th.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên VKSND tỉnh đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.
* Bản án phúc thẩm số…/2024/DSPT ngày …… của TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tuyên xử: Hủy bản án sơ thẩm số …../2023/DSST ngày ……… của TAND Thị xã …, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Trong vụ án này, nguyên đơn khởi kiện với yêu cầu bị đơn phải di dời tài sản trên đất và trả lại đất cho nguyên đơn. Tuy nhiên bị đơn quản lý đất và các tài sản trên đất là dựa trên cơ sở giấy đồng ý ngày 19-6-2017 của bà Đ ký cho bị đơn được quản lý khu đất, thay mặt bà Đ mua bán, cho tặng, làm giấy tờ, giữ miếng đất không cho ai mua bán, ai có tu thì ở .Với nội dung như trên thì giấy đồng ý này mang tính chất của giấy ủy quyền cho bị đơn thay mặt bà Đ trong những việc nhất định, không phải là nội dung cho tặng. Do đó hiệu lực của giấy ủy quyền chỉ tồn tại khi người ủy quyền còn sống. Bà Đ chết ngày 26/10/2018 nên hiệu lực của giấy ủy quyền cũng chấm dứt từ ngày này và kể từ ngày đó bị đơn không còn được quyền quản lý, thay mặt bà Đ quyết định những vấn đề có liên quan đến tài sản nữa mà quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản của bà Đ thuộc về những người thừa kế của bà Được. Vì vậy nguyên đơn kiện bị đơn buộc di dời tài sản trên đất là không đúng đối tượng.

Tòa án cấp sơ thẩm có đưa ông K là chồng và ông H là con của bà Đ vào tham gia vụ án, ông K và ông H có lời khai không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn và đồng ý trao cho bị đơn quyền xử lý các hồ sơ liên quan đến khu đất tranh chấp trong việc kiện để nguyên đơn trả quyền sử dụng khu đất đang tranh chấp, những người này không có ý kiến cho bị đơn tài sản của bà Đ. Vì thế buộc bị đơn phải di dời tài sản thuộc về những người thừa kế của bà Đ là không phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định rõ yêu cầu của những người thừa kế để giải quyết trong vụ án là thiếu sót. Cần xác định ông K là chồng của bà Đ và ông H là con của bà Đ có yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất đang tranh chấp, hay đồng ý cho ông Th được toàn quyền sử dụng sở hữu; vấn đề này chưa được cấp sơ thẩm làm rõ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung khắc phục được. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, hủy Bản án dân sự sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.


    Tin, bài: Thái Quốc Bảo – Trưởng phòng 9

Lên đầu trang