19/09/24 11:49

Kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm do xác định chưa đầy đủ quan hệ tranh chấp và chưa đánh giá toàn diện tài liệu chứng cứ

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án và bản án dân sự sơ thẩm về “Tranh chấp chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M (SN: 1955, trú TP. Bà Rịa) và bị đơn Ông Nguyễn Văn T  (SN: 1957) Nguyễn Văn Th (SN: 1958) có nhiều vi phạm về tố tụng và nội dung, VKSND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành kháng nghị phúc thẩm trên cấp.

Nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị M có cha là cụ Nguyễn Văn Th1 (chết năm 2013) mẹ cụ Lê Thị M (chết năm 2012), không để lại di chúc, hai cụ có 08 người con chung. Bà M khởi kiện đối với hai người em trai là ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất diện tích 35.342m2 (gồm 67 thửa) thuộc tờ bản đồ 13 xã L do cụ ông Nguyễn Văn Th1 đứng tên.

Bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện, có đơn yêu cầu phản tố và cung cấp chứng cứ 02 giấy cho đất viết (bản phô tô) vào ngày 17/02/2006 và ngày 23/02/2006 do cụ Th1 viết về việc đã cho đất các bị đơn.

Tại phiên tòa sơ thẩm, căn cứ giấy cho đất, TAND huyện Đ đã tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà M đối với các bị đơn ông Nguyễn Văn Th và ông Nguyễn Văn T về việc yêu cầu chia thừa kế tài sản đối với diện tích đất 30.342m2 và chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu chia thừa kế tài sản đối với diện tích đất 6.601,3m2 tọa lạc tại xã L cụ Th1, cụ M để lại.

Qua công tác kiểm sát, VKSND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phát hiện bản án sơ thẩm có những vi phạm như sau:

Về tố tụng

Cụ thể xác định quan hệ tranh chấp chưa đầy đủ: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là "Tranh chấp di sản thừa kế" là phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 26 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, do bị đơn có yêu cầu phản tố yêu cầu công nhận giấy cho đất ngày 23/02/2006. Do đó, Tòa án chỉ xác định quan hệ tranh chấp di sản thừa kế là chưa đầy đủ; còn thiếu các quan hệ tranh chấp “Yêu cầu công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS năm 2015.

Về nội dung

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cung cấp 02 “Giấy cho đất” cùng đề ngày 23/02/2006  có nội dung Cụ Nguyễn Văn Th1 và cụ Lê Thị M (ghi tên theo giấy cho đất) cho bị đơn ông Nguyễn Văn Th 20.000 m2 đất, cho  bị đơn ông Nguyễn Văn T 10.342 m2. Cả 02 giấy cho đất này đều được UBND xã chứng thực cùng ngày 23/02/2006. Tuy nhiên, chứng cứ do bị đơn cung cấp đều là bản phô tô nên không đảm bảo xác định là chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Nhận thấy, cả 02 “Giấy cho đất” của cụ Th1, cụ M cho các bị đơn cùng đề ngày 23/02/2006; đồng thời cả 02 giấy cho đất này đều được UBND xã chứng thực cùng số 136 cùng ngày 23/02/2006. Căn cứ biên bản xác minh sổ chứng thực chữ ký Quyển số 01/TP-CC-SCT/CK ngày 03/10/2003 của UBND xã có ghi lại vào ngày 23/02/2006 có vào sổ chứng thực số 136 cho cụ Nguyễn Văn Th1 đối với “Giấy cho đất” do Chủ tịch Nguyễn Văn H ký, nhưng UBND xã không lưu trữ bản giấy nào của giấy cho đất nêu trên. Do đó,  không đủ căn cứ xác định chỉ có cụ Nguyễn Văn Th1có cùng vợ là bà Lê Thị M cho đất hay chỉ một mình cụ Th1; việc cho đất là cho ai và diện tích đất cho là bao nhiêu trong khi cả 02 giấy cho đất đối với các bị đơn có cùng số chứng thực là 136.
Giấy tay có nội dung cho đất ngày 17/02/2006 có nội dung: Cụ Nguyễn Văn Th1 có đứng chủ quyền diện tích 35.342 m2 tại xã L. Nay cho chia cho 02 con là Nguyễn Văn T khoảng 10.342 m2, Nguyễn Văn Th khoảng 20.000 m2 nhưng không được công chứng, chứng thực nên vô hiệu về mặt hình thức theo quy định tại khoản 1 Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Mặt khác, như nội dung phân tích nêu trên thì diện tích 35.342 m2 là tài sản chung của cụ Th1, cụ M (tên theo trình bày của đương sự); tuy nhiên giấy tay cho đất này không chứa đựng nội dung cụ M cho các bị đơn ông T, ông Th đất; đồng thời tài sản chung của vợ chồng cụ Th1, bà M cũng chưa phân chia nên việc cụ Th1 định đoạt cho con cả phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của cụ M là không phù hợp. Do đó, về nội dung giấy tay chia cho con đất của cụ Th1 ngày 17/02/2006 cũng vô hiệu do cụ không có quyền định đoạt đối với diện tích đất thuộc quyền sử dụng của cụ M.

Xét 02 “Giấy cho đất” ngày 23/02/2006 của cụ Th1, cụ M cho các bị đơn không đảm bảo về các nội dung cơ bản của hợp đồng tặng cho quy định tại Điều 723 Bộ luật Dân sự năm 2005, nên “Giấy cho đất” ngày 23/02/2006 của cụ Th1, cụ M cho các bị đơn ông Nguyễn Văn Th, ông Nguyễn Văn T là vô hiệu theo quy định tại khoản 1 Điều 467, Điều 723 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Bản án sơ thẩm công nhận các giấy cho đất ngày 23/02/2006 là không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Th1, cụ M.

Từ những vi phạm trên, để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự là đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Th1, cụ M, VKSND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành kháng nghị Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2024/DS-ST ngày 29/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm sửa  Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2024/DS-ST ngày 29/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ theo hướng:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bà Nguyễn Thị M về việc chia di sản thừa kế đối với phần di sản là quyền sử dụng đất do cụ Th1, cụ M để lại đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng số C 0978363 ngày 23/01/1995 đứng tên cụ Th1 theo diện tích đất đo vẽ thực tế. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của các bị đơn về việc yêu cầu công nhận giấy cho đất ngày 23/02/2006.

     

      Tin: Đoàn Thị Thìn –Phòng 9

Lên đầu trang