Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự: Nguyên đơn là bà Ánh H và ông Văn L; bị đơn là bà Thị L, và ông Minh Đ có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau:
1. Nội dung vụ án
Nguyên đơn bà Ánh H và ông Văn L trình bày:
Bà Ánh H và ông Văn L khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Thị L trả lại cho bà H, ông L tổng diện tích đất 831m2 (gồm 02 phần 500m2 và 331m2) thuộc thửa 548 (nay là thửa 100), tờ bản đồ 78 xã Bàu Lâm, huyện Xuyên Mộc; trên đất có cây điều, bưởi và các cây khác mà bà L đã trồng thì đề nghị bà L di dời để trả lại đất trống cho bà H, ông L. Đối với phần đất ông Minh Châu xây dựng lấn sang là hàng rào móng đá chẻ và phần nhỏ nhà vệ sinh, trường hợp Tòa án tuyên phần đất này là của bà H, ông L thì bà H, ông L yêu cầu ông Châu tháo dỡ móng nhà và phần nhỏ nhà vệ sinh để trả lại đất cho bà H, ông L, còn trường hợp Tòa án tuyên là đất của bà L thì bà L sẽ giải quyết với ông Châu.
Đối với yêu cầu phản tố của bà L: Yêu cầu Tòa án công nhận 500m2 và 331m2, tổng cộng 831m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100), tờ bản đồ 78 xã Bàu L cho bà L và các con tên Minh Danh, Minh Đạt, Minh Toàn, Minh Thắng, Minh Lợi thì bà H, ông L không đồng ý vì đây là đất của bà H, ông L.
Bị đơn bà Thị L và ông Minh Đ, do bà Thị L trình bày:
Bà L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà H và ông L, bà L không có quan hệ gì với bà H, còn ông L với bà L có quan hệ bà con xa.
Vào năm 2018 ông Minh Châu (người ở giáp ranh đất bà H và bà L tranh chấp) do đất của ông Châu không được vuông vức nên ông Châu có hỏi xin bà L khoảng 20m2 và được bà L đồng ý, việc bà L cho diện tích đất này cho ông Châu hai bên không làm giấy tờ gì. Đối với phần bà L đã cho ông Châu theo sơ đồ bản vẽ cụ thể bao nhiêu thì bà L không rõ, vì trước kia bà L cho đất ông Châu cũng không nói rõ diện tích do mục đích bà L cho đất ông Châu để đất ông Châu được vuông vức. Nay xảy ra tranh chấp giữa bà L và bà Hồng thì bà L có ý kiến trường hợp đất này Tòa án tuyên thuộc về bà L thì bà L và ông Châu sẽ tự giải quyết với nhau.
Ngày 18/7/2022 và ngày 28/02/2023 bà L có yêu cầu phản tố: Bà L yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất 500m2 và 331m2, tổng cộng 831m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100), tờ bản đồ 78 xã Bàu L, huyện Xuyên Mộc cho bà L và các con tên Minh Danh, Minh Đạt, Minh Toàn, Minh Thắng, Minh Lợi.
2. Quá trình giải quyết vụ án
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 76/DS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ánh H, ông Văn L đối với bà Thị L về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ánh H, ông Văn L về việc yêu cầu bà Thị L trả lại diện tích đất 831 m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100) tờ bản đồ số 78 xã Bàu L, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và không công nhận diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của bà Ánh H và ông Văn L.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Ánh H và ông Văn L đối với yêu cầu buộc ông Minh Đ trả lại diện tích đất 831 m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100) tờ bản đồ số 78 xã Bàu L, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Thị L, công nhận cho bà Thị L cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (là các con của bà L) các ông Minh Danh, Minh Đạt, Minh Toàn, Minh Thắng và Minh Lợi được quyền quản lý, sử dụng tích đất 831m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100) tờ bản đồ số 78 xã Bàu Lâm, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; vị trí thửa đất được thể hiện trên Mảnh trích đo địa chính ngày 10/6/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Xuyên Mộc.
(Kèm theo bản án là Mảnh trích đo địa chính ngày 10/6/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.)
Bà Thị L cùng các con Minh Danh, Minh Đạt, Minh Toàn, Minh Thắng và Minh Lợi có quyền và nghĩa vụ đăng ký kê khai đăng ký để được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nêu trên theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra bản án còn tuyên chí phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
VKSND huyện Xuyên Mộc phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án thống nhất với Tòa án.
Ngày 29/9/2023, bà Ánh H có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc để xét xử lại.
Ngày 28/11/2023, TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 66/2024/DS-ST ngày 10/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tuyên xử:
Chấp nhận kháng cáo của bà Ánh H; hủy bản án dân sự sơ thẩm số 76/DS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
III. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
1. Xác định thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:
-Đối với yêu cầu của nguyên đơn bà H, ông L yêu cầu bị đơn bà Thị L trả lại diện tích đất 500 m2 thuộc thửa 548 tờ bản số 78 xã Bàu L, huyện Xuyên Mộc:
Về nguồn gốc đất nguyên đơn cho rằng: Diện tích đất 500m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100) tờ bản số 78 xã Bàu L, huyện Xuyên Mộc có nguồn gốc là do nguyên đơn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Lê Hương - pháp danh Thích Kiến Thông vào ngày 21/12/2011. Khi chuyển nhượng hai bên có viết giấy tay theo “Giấy chuyể nhượng” ngày 21/12/2011, giấy này có ông Thông ký tên, với giá chuyển nhượng là 7.000.000đ nguyên đơn đã giao đủ tiền cho ông Thông, ông Thông đã giao đất cho nguyên đơn từ ngày 21/12/2011, nhưng trước đó giữa ông Thông và bà L có xảy ra tranh chấp nên ông Thông không sử dụng ngày nào, đến khi ông Thông chuyển nhượng cho bà H thì bà H cũng không sử dụng ngày nào, do có sự tranh chấp trước đó giữa bà L và ông Thông.
Về nguồn gốc đất bị đơn cho rằng: Diện tích đất 500m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100) tờ bản số 78 xã Bàu L có nguồn gốc là do bà L và ông Công khai phá. Sau đó, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bà L, ông Công có bán diện tích đất nêu trên cho chùa Linh Sơn đại diện là thầy Minh Phát (đang làm chủ trì chùa Linh Sơn) với giá 7.000.000đ, cách nay đã lâu còn cụ thể năm nào bà L không nhớ. Tuy nhiên, sau khi mua đất thì thầy Minh Phát có nói với bà L, ông Công là nhà chùa chưa có nhu cầu sử dụng nên để cho vợ cH bà L tiếp tục sử dụng, việc này chỉ nói bằng miệng không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh. Hiện nay, thầy Minh Phát đã chết thì thuộc quyền sử dụng của gia đình bà L.
-Đối với yêu cầu của nguyên đơn bà H, ông L yêu cầu bị đơn bà Thị L trả lại diện tích đất 331 m2 thuộc thửa 548 tờ bản số 78 xã Bàu L, huyện Xuyên Mộc:
Theo nguyên đơn, nguồn gốc đất 331 m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100) tờ bản số 78 xã Bàu L có nguồn gốc là do cha của bà H là ông Vũ Văn Tuyên được Nông trường cao su Hòa Bình 2 cấp năm 1986 và dính liền với thửa 551, tờ bản đồ số 78 xã Bàu L, tặng cho bà H vào năm 1998. Sau khi ông Thông mua 500m2 đất của bà L thì bà H có cho ông Thông mượn diện tích đất 331m2 nên thành 831m2 thửa 548 (nay là thửa 100), tờ bản đồ 78 xã Bàu L.
Theo bị đơn bà L, nguồn gốc đất 331m2 thuộc thửa 548 tờ bản số 78 xã Bàu L có nguồn gốc là do chùa Linh Sơn Tự cụ thể là thầy Minh Phát cho (chỉ nói bằng miệng) bà L sử dụng và gia đình bà L đã sử dụng từ năm 2017 cho đến nay, khi nào chùa Linh Sơn Tự, thầy Minh Phát lấy lại thì bà L sẽ trả lại đất.
Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì thấy: Tòa án cấp sơ thẩm chưa điều tra, xác minh để đưa những người có liên quan đến diện tích đất tranh chấp là người thừa kế của ông Minh Phát, của ông Lê Hương - pháp danh Thích Kiến Thông vào tham gia tố tụng để làm rõ về nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đất, có ý kiến yêu cầu gì đối với diện tích đất tranh chấp hay không…
Tại Biên bản xác minh ngày 26/5/2022 của Tòa án thì diện tích đất tranh chấp nằm trong tổng diện tích 440 ha UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã có Quyết định số 2465/QĐ-UBND ngày 09/11/2012 v/v thu hồi 440ha đất tại xã Bàu Lâm, huyện Xuyên Mộc do Công ty cổ phần Cao su Thống Nhất đang quản lý nhưng không sử dụng và giao trả cho Nhà nước để quản lý. Toà án cấp sơ thẩm cũng không đưa UBND xã Bàu Lâm vào tham gia tố tụng trong vụ án để làm rõ việc quản lý đất.
Mặt khác, bà H trình bày nguồn gốc đất 331m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100) có nguồn gốc là do Nông trường cao su Hòa Bình 2 cấp năm 1986 trong 1000m2 cho cha bà H – ông Vũ Văn Tuyên, dính liền với thửa 551, tờ bản đồ số 78 xã Bàu Lâm (Thửa 551 là 737m2 là chùa Linh Sơn hiện nay và 331m2 thuộc thửa 548, tờ bản đồ 78), hồ sơ chưa có tài liệu xác định diện tích 331m2 không thuộc trong 1000m2 cấp cho ông Tuyên (theo Mảnh trích đo địa chính ngày 10/6/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Xuyên Mộc thì diện tích 331m2 nằm tiếp giáp với phần đất do bà H quản lý). Chùa Linh Sơn đã bị xóa tên, không còn là cơ sở tôn giáo của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thì hiện nay chùa Linh Sơn do ai đang quản lý, sử dụng.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Thị L chưa đủ căn cứ:
Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu phản tố, công nhận cho bị đơn bà Thị L cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (là các con của bà L) các ông Minh Danh, Minh Đạt, Minh Toàn, Minh Thắng và Minh Lợi được quyền quản lý, sử dụng tích đất 831m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100) tờ bản đồ số 78 xã Bàu L, huyện Xuyên Mộc. Như nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập, xác minh làm rõ những vấn đề có liên quan trong vụ án, chưa đưa những người có liên quan đến diện tích đất tranh chấp này vào tham gia vụ án, bà L và các con của bà L cũng không kê khai đăng ký, không có giấy tờ về đất; do đó việc công nhận cho bà L và các con của bà L được quyền quản lý, sử dụng đất là chưa đủ căn cứ, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.
Do vậy, Toà án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án là chưa đảm bảo về thủ tục tố tụng, cũng như chứng cứ trong vụ án; Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Ánh H, hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Trên đây là vụ án dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết, nhưng bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông báo cho Viện Kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố, thị xã biết để tham khảo và rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự trong thời gian tới.
Bài: Vũ Duyên Trường - Phòng 9