Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp tiền bồi thường do Nhà nước thu hồi đất và tài sản gắn liền với đất” của TAND TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tại Bản án số 25/2023/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2023, VKSND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thấy Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm trong việc thu thập chứng cứ, đưa thiếu người có quyền và nghĩa vụ liên quan cần thông báo để rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát trong lĩnh vực dân sự.
I. Nội dung vụ án
- Đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Th là bà Nguyễn Thị C trình bày:
Về nguồn gốc diện tích đất 171,1m2 có chiều ngang 8,5m, dài 20m thuộc một phần thửa số 177, tờ bản đồ số 19, Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có diện tích 2.093m2 của ông Hoàng Văn Rung. Năm 1996, ông Rung chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Hiến diện tích đất 170m2 nhưng đến năm 1998 các bên mới lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và được UBND Phường 10 xác nhận ngày 02/3/1998. Khi chuyển nhượng thì đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho ông Hoàng Văn Rung nhưng đất này do ông Hoàng Văn Rung khai phá từ năm 1975, có đăng ký kê khai tại UBND Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau khi nhận chuyển nhượng, ông Nguyễn Văn Hiến làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đến ngày 17/4/2003, UBND thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Hiến đối với diện tích đất 170m2, thửa số 999, Tờ bản đồ số 19, Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Ngày 25/4/2003, ông Nguyễn Văn Hiến chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích đất nêu trên cho bà Nguyễn Thị Th; việc chuyển nhượng đất được lập thành hợp đồng và được Ủy ban nhân dân Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xác nhận ngày 13/8/2003. Bà Nguyễn Thị Th đã giao đủ tiền cho ông Nguyễn Văn Hiến; ông Nguyễn Văn Hiến chỉ ranh đất, giao đất trên thực tế cho bà Nguyễn Thị Th. Theo thỏa thuận, ông Nguyễn Văn Hiến có trách nhiệm làm thủ tục sang tên cho bà Nguyễn Thị Th. Khoảng năm 2004, ông Nguyễn Văn Hiến trả lại toàn bộ hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Th và nói bà Th tự đi làm. Khoảng tháng 10, tháng 11 năm 2004, bà Th đi nộp hồ sơ chuyển nhượng thì được biết diện tích đất 170m2 nêu trên nằm trong tổng diện tích đất bị thu hồi tại khu Chí Linh, Phường 10, TP. Vũng Tàu và đã có Quyết định thu hồi số 7399/QĐ-UB ngày 08/10/2004 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên không làm được.
Năm 2005, bà Nguyễn Thị Th xây nhà bị bà Đường Thị Lý tranh chấp; do đó địa phương không cho bà Nguyễn Thị Th tiếp tục xây dựng nhà. Đến năm 2016, Nhà nước thu hồi đất để làm đường và có Quyết định thu hồi, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất số 10375/QĐ-UBND ngày 24/11/2016 đối với diện tích đất 171,1m2 và bồi thường số tiền 167.421.350 đồng. Do có tranh chấp nên Nhà nước chưa chi trả tiền bồi thường cho bà Th. Vì vậy, bà Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận cho bà Th được hưởng toàn bộ số tiền 167.867.450 đồng nêu trên.
- Bị đơn là bà Đường Thị L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Quang Thanh trình bày:
Về nguồn gốc diện tích đất 160m2 có chiều ngang 8m, chiều dài 20m thuộc một phần thửa số 177, tờ bản đồ số 19, Phường 10, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có diện tích 2.093m2 của ông Hoàng Văn Rung. Năm 1996, ông Hoàng Văn Rung chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Mẫn nhưng vì đất chuyển nhượng chưa được cấp sổ đỏ nên không sang tên cho bà Nguyễn Thị Mẫn được. Năm 1998, bà Nguyễn Thị Mẫn chuyển nhượng lại cho bà Đường Thị L. Các bên thỏa thuận hủy việc chuyển nhượng đất giữa ông Hoàng Văn Rung và bà Nguyễn Thị Mẫn; ông Hoàng Văn Rung ký chuyển nhượng trực tiếp cho bà Đường Thị L. Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Hoàng Văn Rung với bà Đường Thị L được UBND Phường 10, thành phố Vũng Tàu xác nhận số 81.7.98/PM ngày 10/7/1998. Bà Nguyễn Thị Mẫn là người chỉ ranh đất và diện tích 160m2 nêu trên cho bà Đường Thị L, khi đó đất ruộng trống, việc chỉ ranh không lập biên bản và không có ai chứng kiến. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, bà Đường Thị L không làm thủ tục xin cấp sổ đỏ ngay; đến tháng 6 năm 2004, bà Đường Thị L có liên hệ xin cấp sổ đỏ nhưng do nộp trễ nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối tiếp nhận. Hiện nay, bà Đường Thị L không biết ông Hoàng Văn Rung, bà Nguyễn Thị Mẫn còn sống hay đã chết và không biết địa chỉ của họ ở đâu.
Năm 2005, bà Th xây nhà trên diện tích đất mà bà Đường Thị L nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Mẫn; bà Đường Thị L không cho bà Nguyễn Thị Th xây dựng nên xảy ra tranh chấp từ năm 2005 đến nay. Đất đã bị thu hồi do bà Đường Thị L nhận chuyển nhượng của ông Hoàng Văn Rung. Vì vậy, bà Đường Thị L và ông Võ Quang Thanh là người được nhận số tiền bồi thường 167.867.450 đồng.
II. Quá trình giải quyết của Tòa án
- Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2023/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố VT quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th về việc bà Th được nhận tiền bồi thường khi nhà nước thu hồi, bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất.
Bà Nguyễn Thị Th được quyền nhận số tiền bồi thường về đất là 167.421.350 đồng (Một trăm sáu mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi mốt ngàn ba trăm năm mươi đồng) và được nhận số tiền 213.050 đồng (Hai trăm mười ba ngàn không trăm năm mươi đồng), tổng cộng số tiền bà Nguyễn Thị Th được nhận bồi thường là 167.634.400 đồng (Một trăm sáu mươi bảy triệu sáu trăm ba mươi bốn ngàn bốn trăm đồng).
Bà Nguyễn Thị Th có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhận tiền đền bù đất và tài sản trên đất.
Bà Nguyễn Thị Th không tranh chấp và rút một phần yêu cầu khởi kiện về số tiền 233.050 đồng (hai trăm ba mươi ba ngàn không trăm năm mươi đồng) bồi thường hoa màu, cây trái do bà Đường Thị L trồng. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th về số tiền 233.050 đồng (Hai trăm ba mươi ba ngàn không trăm năm mươi đồng) bồi thường hoa màu, cây trái do bà Đường Thị L trồng được kiểm kê, phê duyệt cho bà Đường Thị L.
- Bà Đường Thị L, ông Võ Quang Thanh kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm do chưa đủ căn cứ xác định vị trí đất của nguyên đơn và bị đơn.
- Ngày 02/6/2023, TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thụ lý vụ án theo trình tự phúc thẩm.
- Bản án dân sự phúc thẩm số 52/2024/DS-ST ngày 26/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tuyên xử:
Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2023/DS-ST ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung
III. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm.
1. Xác định thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ủy ban nhân dân phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là cơ quan xác nhận việc chuyển nhượng đất giữa ông Hoàng Văn Rung với ông Nguyễn Văn Hiến và giữa ông Hoàng Văn Rung với bà Đường Thị L; lập biên bản xác minh nguồn gốc đất của ông Hoàng Văn Rung đề ngày 29/3/1996 phục vụ cho việc chuyển nhượng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án thu thập được biên bản này từ Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng Tàu, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Vũng Tàu và Ủy ban nhân dân phường 10, thành phố Vũng Tàu; các biên bản này cùng đề ngày 29/3/1996 và thành phần nhưng phần lược đồ thửa 177, tờ bản đồ 19 tách thành các thửa nhỏ để chuyển nhượng cho người khác là khác nhau. Bà Đường Thị L và bà Nguyễn Thị Th đều cho rằng diện tích đất thu hồi theo Quyết định số 10375/QĐ-UBND ngày 24/11/2016 của UBND thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (QĐ số 10375/QĐ-UBND) là phần diện tích đất của mình nhận chuyển nhượng của ông Hoàng Văn Rung. QĐ số 10375/QĐ-UBND có nội dung thu hồi diện tích 171,1m2 thuộc thửa 177, tờ bản đồ 19, Phường 10 và thuộc thửa số 06 bản đồ thu hồi đất. Tại thời điểm thu hồi đất thửa 177, tờ bản đồ 19 không còn tồn tại do trên địa bàn thành phố Vũng Tàu đã áp dụng bản đồ địa chính mới. Vì vậy, các thửa đất theo bản đồ cũ có sự thay đổi về số hiệu thửa đất và số tờ bản đồ. Ủy ban nhân dân phường 10, thành phố Vũng Tàu là cơ quan xác nhận việc chuyển nhượng đất nên phải có trách nhiệm xác định vị trí đất của nguyên đơn và bị đơn. Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có thẩm quyền thu hồi đất phải chịu trách nhiệm xác định diện tích đất thu hồi tại QĐ số 10375/QĐ-UBND là thửa đất nào trên bản đồ địa chính để sửa đổi bổ sung quyết định này theo đúng thực tế sử dụng đất phù với việc lập, chỉnh sửa bản đồ địa chính. Căn cứ khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015 cần đưa hai cơ quan này vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Thu thập chứng cứ chưa đầy đủ
Quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã yêu cầu Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng Tàu và Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ. Tuy nhiên, việc cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ cũng không đủ cơ sở để giải quyết vụ án và có mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ do cấp sơ thẩm thu thập, cụ thể:
Chưa đủ chứng cứ xác định vị trí đất nhận chuyển nhượng của nguyên đơn và bị đơn.
Thiếu căn cứ xác định quá trình biến động thửa 177, tờ bản đồ 19 do ông Hoàng Văn Rung đăng ký trong sổ mục kê, sổ đăng ký đất đai năm 1993: Công văn 5841/CNVPĐK-TTLT ngày 26/10/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng Tàu xác định chưa có thông tin biến động của thửa 177, tờ bản đồ 19. Công văn số 10201/UBNDTNMT ngày 19/12/2023 của UBND thành phố Vũng Tàu cung cấp thông tin “...Thửa 177, tờ bản đồ 19 do ông Hoàng Văn Rung đăng ký năm 1993 đã tách ra thành nhiều thửa để chuyển nhượng cho người khác. Tuy nhiên trên bản đồ địa chính từ năm 1993 đến năm 2004 không cập nhật”. Quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng và Ủy ban nhân dân phường Rạch Dừa cung cấp cho Tòa án bản đồ địa chính năm 2002, bản đồ địa chính năm 2004; nội dung hai tờ bản đồ này có thể hiện sự biến động của thửa 177, tờ bản đồ 19. Vì vậy, cần xác định tính hiệu lực của hai tờ bản đồ nêu trên.
Công văn số 10201/UBNDTNMT ngày 19/12/2023 của UBND thành phố Vũng Tàu cũng xác nhận diện tích đất thu hồi tại QĐ số 10375/QĐ-UBND tương ứng với thửa 211, tờ 84 bản đồ địa chính năm 2004 do ông Nguyễn Văn Dung đăng ký trong sổ mục kê năm 2004. Do đó, cũng cần làm rõ ông Nguyễn Văn Dung có tranh chấp gì đối với số tiền bù đất các bên tranh chấp trong vụ án này hay không.
Tin, bài: Bùi Thị Doan - Phòng 9