14/11/22 09:50

KINH NGHIỆM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần Đ và bị đơn là Công ty cổ phần T, tôi xin trao đổi để các đồng nghiệp cùng nghiên cứu, tham khảo như sau:

1.Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 21/02/2008, Ngân hàng thương mại cổ phần Đ cho Công ty cổ phần T (viết tắt là Công ty T), vay số tiền 400.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng trung hạn số 00760/2008/0000678, với lãi suất trong hạn là 0,98%/tháng, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn, trả lãi hàng tháng, thời hạn vay 48 tháng. Vốn vay chia ra trả hàng quý, từ quý II năm 2008 cho đến quý I năm 2012, Công ty T trả cho Ngân hàng mỗi quý 25.000.000 đồng. Thời hạn trả nợ cuối cùng là ngày 21/02/2012.

Khoản vay này, Công ty T đã trả cho Ngân hàng được 399.000.000 đồng tiền gốc và 54.138.334 đồng tiền lãi. Công ty T còn nợ của Ngân hàng 1.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi phát sinh.

Ngày 21/5/2009, Ngân hàng thương mại cổ phần Đ tiếp tục cho Công ty T vay số tiền là 590.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 760/2009/1625, với lãi suất trong hạn là 10%/năm, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn, trả lãi hàng tháng. Thời hạn vay 06 tháng, vốn vay trả dần trong vòng 06 tháng. Thời hạn trả nợ cuối cùng là ngày 23/11/2009.

Khoản vay này, Công ty T đã trả 26.000.000 đồng tiền gốc và 56.131.945 đồng tiền lãi. Công ty T còn nợ của Ngân hàng 564.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi phát sinh.

Tài sản thế chấp để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của Công ty T là thửa đất số 59 tờ bản đồ số 29 xã B, huyện M được cấp giấy CNQSD đất số AD 054673 ngày 04/10/2005 đứng tên bà Lê Thị T. theo Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 01/2008/HĐBL ngày 03/11/2008; đồng thời Ngân hàng đang giữ giấy CNQSD đất số AD 928659 ngày 20/01/2006 đứng tên ông N. và bà H. đối với thửa đất số 12 tờ bản đồ số 29 xã B, huyện M.
Vì vậy, Ngân hàng đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện M giải quyết buộc Công ty T phải trả toàn bộ số nợ gốc và lãi phát sinh đến ngày tất toán nợ. (Tính đến ngày 09/10/2019 thì tổng số nợ mà Công ty T còn nợ của ngân hàng là 565.000.000 đồng tiền gốc và 923.048.534 đồng tiền lãi). Trường hợp Công ty T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Tại Bản án kinh doanh - thương mại sơ thẩm số: 08/KDTM-ST của Tòa án nhân dân huyện M đã tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng đối với Công ty cổ phần T.

Buộc Công ty cổ phần T phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ 565.000.000đ tiền gốc, 2.273.499đ tiền lãi trong hạn, 920.775.034đ tiền lãi quá hạn và phải chịu lãi theo hợp đồng tín dụng trung hạn số 00760/2008/0000678 ngày 21/02/2008 và hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 760/2009/1625 ngày 21/5/2009 kể từ ngày 10/10/2019 cho đến khi trả hết nợ.

rường hợp Công ty cổ phần T không trả được nợ thì đề nghị cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản bà Lê Thị T đã thế chấp cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ là thửa đất số 59, tờ bản đồ số 29 xã B, huyện M đã được giấy CNQSD đất số AD 054673 ngày 04/10/2005 cho bà T để thu hồi nợ.

Sau khi Công ty cổ phần T trả hết nợ cả vốn và lãi cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, thì Ngân hàng thương mại cổ phần Đ có trách nhiệm trả lại giấy CNQSD đất số AD 928659 ngày 20/01/2006 cho ông N, bà H.
Ngoài ra bản án còn tuyên về việc thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của đượng sự.

Sau khi có bản án sơ thẩm, bị đơn là Công ty cổ phần T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn kháng cáo đối với toàn bộ bản án để yêu cầu Tòa phúc thẩm xem xét giải quyết vụ án theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện M để xét xử lại theo quy định.

2. Kết quả giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm:

Tòa án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã mở phiên tòa xét xử vụ án, tại Bản án phúc thẩm số 10/KDTM-PT, Hội đồng xét xử đã thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn là Công ty cổ phần T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; sửa Bản án kinh doanh - thương mại sơ thẩm số: 08/KDTM-ST của Tòa án nhân dân huyện M về phần xử lý tài sản thế chấp.

3. Những vấn đề cần lưu ý trong vụ án:

Theo yêu cầu kháng cáo của các đương sự thì bà Lê Thị T đã chết vào ngày 04/02/2009, nên Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 01/2008/HĐBL ngày 03/11/2008 (bên thế chấp là bà T đã bảo lãnh việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay vốn là Công ty T) không còn giá trị, và không đồng ý việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Theo tài liệu có trong hồ sơ, bà T đã chết vào ngày 04/02/2009, vì vậy căn cứ Điều 424 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 01/2008/HĐBL ngày 03/11/2008 do bà T thực hiện việc ký kết đã chấm dứt sau ngày 04/02/2009.

Ngân hàng thương mại cổ phần Đ và Công ty T ký kết 02 hợp đồng tín dụng. Do vậy, tài sản thế chấp là thửa đất số 59, tờ bản đồ số 29 xã B, huyện M không được bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 760/2009/1625 ngày 21/5/2009, vì hợp đồng này ký kết sau khi bà T đã chết. Tài sản trên chỉ bảo đảm cho nghĩa trả nợ đối với Hợp đồng tín dụng trung hạn số 00760/2008/0000678 ngày 21/02/2008, vì hợp đồng này ký trước khi bà T chết.

Mặt khác, theo nội dung và phạm vi thế chấp tại Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 01/2008/HĐBL thì các bên (bên thế chấp là bà Lê Thị T, bên nhận thế chấp là Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, bên vay vốn là Công ty T) có thỏa thuận là bên thế chấp bảo lãnh việc thực hiện nghĩa vụ của Công ty T, với số tiền tối đa là 300.000.000đ. Như vậy, trường hợp Công ty T không trả được nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ theo hợp đồng tín dụng trung hạn số 00760/2008/0000678 ngày 21/02/2008 thì phát mại tài sản mà bà Lê Thị T đã thế chấp để thu hồi nợ, nhưng theo phạm vi thế chấp- số tiền tối đa không vượt quá 300.000.000đ.

Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, làm rõ thời điểm bà Lê Thị T chết, cũng như nội dung và phạm vi thế chấp tại Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 01/2008/HĐBL như nêu trên là có thiếu sót.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử, sau khi Công ty T trả hết nợ cả vốn và lãi cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, thì Ngân hàng có trách nhiệm trả lại giấy CNQSD đất số AD 928659 ngày 20/01/2006 cho ông N, bà H là không phù hợp, bởi vì Ngân hàng thương mại cổ phần Đ giữ giấy chứng nhận này là không có căn cứ pháp luật, thửa đất số 12 tờ bản đồ số 29 xã B theo giấy CNQSD đất số AD 928659 ngày 20/01/2006 không phải là tài sản thế chấp trong vụ án, nên Ngân hàng có nghĩa vụ trả lại ngay theo yêu cầu của ông N, bà H, mà không phải sau khi Công ty T thực hiện việc trả hết nợ cả vốn và lãi cho Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng.

Do đó, kháng cáo của các đương sự đối với bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận một phần về việc xử lý tài sản thế chấp. Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa Bản án kinh doanh - thương mại sơ thẩm số: 08/KDTM-ST của Tòa án nhân dân huyện M.

Trên đây là vụ án kinh doanh thương mại, Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết, nhưng bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án, tôi xin trao đổi với các đồng nghiệp, nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại trong thời gian tới.

 

        Tin, bài: Vũ Duyên Trường – Phòng 10

Lên đầu trang