VIỆN KIỂM SÁT ND TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Số: 268 - KH /VKS-P9 Bà Rịa, ngày 18 tháng 4 năm 2014
KẾ HOẠCH
Tổ chức Hội thảo đóng góp ý kiến vào
dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi)
------------------------------------
- Căn cứ Kế hoạch số 09/KH-VKSTC-V8 ngày 19/02/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) trong ngành Kiểm sát nhân dân năm 2014.
- Thực hiện sự chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Công văn số 893/VKSTC-V8 ngày 04/4/2014 v/v phối hợp tổ chức hội thảo đóng góp ý kiến vào dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi).
- Được sự đồng ý của đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, xây dựng Kế hoạch tổ chức Hội thảo như sau:
1. Mục đích
Việc tổ chức Hội thảo nằm trong Kế hoạch thông tin, tuyên truyền chung về Dự án Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) nhằm mục đích giúp cho cấp ủy địa phương, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan tư pháp và cơ quan hữu quan khác ở địa phương, các cán bộ, công chức của VKSND cấp tỉnh và cấp huyện nắm rõ, hiểu sâu sắc về Dự án Luật để tiếp tục góp ý xây dựng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thảo luận Dự án Luật tại các kỳ họp Quốc hội trong năm 2014.
2. Yêu cầu
Lãnh đạo VKSND hai cấp phải coi đây là một nhiệm vụ cần được ưu tiên tập trung chỉ đạo trong năm 2014; chủ động, linh hoạt trong việc tổ chức Hội thảo về Dự án Luật bảo đảm đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, có sự phối hợp chặt chẽ với đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và các cơ quan hữu quan.
Mọi ý kiến trao đổi, góp ý phải được tổng hợp đầy đủ, chính xác và xây dựng báo cáo gửi VKSND tối cao.
3. Nội dung
a. Tài liệu nghiên cứu và nội dung trọng tâm thảo luận:
Các tài liệu được gửi đến trước để các đại biểu nghiên cứu gồm có: Dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi); Dự thảo Tờ trình; Dự thảo Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo Luật.
Nội dung trọng tâm thảo luận bao gồm: Những nội dung sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Luật; Lý do sửa đổi; Ý nghĩa, tác động của việc sửa đổi; Những vấn đề còn ý kiến khác nhau; Quan điểm, lý lẽ, lập luận của đại biểu và của ngành Kiểm sát nhân dân về phương án chọn…
b. Thành phần đại biểu tham dự: Toàn bộ các đại biểu Quốc hội của tỉnh; đại diện Tỉnh ủy; Ban Nội chính; Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp; Các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án); Các cơ quan hữu quan khác (Công an, Tư pháp, Tài chính, Nội vụ, Luật gia, Luật sư, Mặt trận tổ quốc; cơ quan Báo và Đài PTTH tỉnh); Viện trưởng, Phó viện trưởng, Trưởng phòng, đại diện tổ tuyên truyền, cán bộ ghi biên bản, xây dựng báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý VKSND cấp tỉnh; Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND cấp huyện. Tổng số 65 đại biểu.
c. Chủ trì Hội thảo: Trưởng đoàn hoặc Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh cùng với Viện trưởng VKSND tỉnh đồng chủ trì Hội thảo.
d. Thời gian tổ chức: Hội thảo được tổ chức trong thời gian 0,5 ngày, dự kiến vào đầu tháng 5/2014. Thời gian cụ thể sẽ có trong giấy mời.
đ. Địa điểm tổ chức Hội thảo: Hội trường VKSND tỉnh.
e. Cách thức tổ chức Hội thảo:
- Để việc tổ chức hội thảo đạt chất lượng, các ý kiến phát biểu có trọng tâm, đại diện Lãnh đạo VKSND cấp tỉnh khi trình bày về các nội dung trọng tâm thảo luận nêu ở điểm a. Mục 3 nêu trên, cần tập trung vào những vấn đề đang còn nhiều ý kiến khác nhau, lý do lựa chọn phương án của ngành Kiểm sát nhân dân.
- Chủ tọa Hội thảo cần lấy ý kiến phát biểu của tất cả các Đại biểu Quốc hội có mặt tại Hội thảo, ý kiến của đại diện Tỉnh ủy, Ban Nội chính, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp, rồi đến ý kiến của các cơ quan, ban ngành khác.
- Đối với ngành Kiểm sát, mỗi đơn vị đều phải chuẩn bị ý kiến phát biểu viết thành văn bản để đăng ký phát biểu. Riêng những đơn vị sau đây cần chuẩn bị kỹ và gửi bài phát biểu về phòng TCCB trước khi Hội thảo 3 ngày để Lãnh đạo Viện duyệt: Phòng II; Phòng III; Phòng IX; Phòng X; Phòng XII ; Viện kiểm sát các huyện Long Điền; Châu Đức; Xuyên mộc và TP Vũng Tàu.
- Viện kiểm sát tỉnh mời đại diện Viện khoa học kiểm sát- VKSND tối cao về dự và giải đáp thắc mắc.
- Các ý kiến phải được ghi chép đầy đủ, tổng hợp nhanh tại hội nghị. Chủ tọa Hội thảo cần giải thích ngay đối với những cách hiểu chưa đúng, giải đáp thắc mắc, xem đây là cơ hội để các đại biểu Quốc hội tiếp cận và hiểu rõ hơn hoạt động của Ngành, từ đó tháo gỡ vướng mắc và nâng cao vị thế của Ngành.
f. Báo cáo kết quả Hội thảo: Trên cơ sở kết quả Hội thảo VKSND tỉnh xây dựng báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý Dự án Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) và gửi về VKSNDTC (Viện khoa học kiểm sát) trong thời gian sớm nhất sau khi Hội thảo kết thúc.
4. Tổ chức thực hiện
- Văn phòng tổng hợp có trách nhiệm liên hệ với Viện khoa học kiểm sát - VKSNDTC nhận tài liệu, in ấn giấy mời, tài liệu gửi đến các đại biểu dự Hội thảo trước từ 5-7 ngày; Chuẩn bị hội trường: bàn ghế, trang trí khẩu hiệu, âm thanh, ánh sáng, nước uống...
- Phòng Tổ chức cán bộ có trách nhiệm xây dựng Kế hoạch Hội thảo, nắm tình hình, giới thiệu đại biểu, giới thiệu Chương trình; Ghi biên bản Hội thảo và xây dựng báo cáo gửi VKSNDTC.
- Tổ tuyên truyền phân công cán bộ dự hội thảo và đưa tin, tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông trong và ngoài Ngành.
- Trưởng phòng nghiệp vụ, Viện trưởng VKSND huyện, thành phố trực thuộc, căn cứ Kế hoạch này tổ chức triển khai thực hiện trong đơn vị.
Nơi nhận:
- TT Tỉnh ủy; VIỆN TRƯỞNG
- Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Viện khoa học VKSNDTC;
- Các đ/c Lãnh đạo Viện;
- Các Phòng NV;
- Các VKS huyện, TP;
- BBT trang Website
- Tổ Tuyên truyền;
- Lưu. Lê Thị Đầy
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỐI CAO Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: /TTr-VKSTC-V8 Hà Nội, ngày tháng năm 2014
TỜ TRÌNH
VỀ DỰ ÁN LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI)
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 2013 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan soạn thảo dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi). Viện kiểm sát nhân dân tối cao kính trình Quốc hội dự án Luật này với những nội dung cơ bản như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN NĂM 2002
1. Ngày 02 tháng 4 năm 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) được Quốc hội khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 11. Trên cơ sở Luật tổ chức VKSND, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND (ngày 04 tháng 10 năm 2002), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND (ngày 19 tháng 02 năm 2011) và Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự (ngày 04 tháng 11 năm 2002), tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng. Trong hơn 10 năm qua, VKSND đã khẳng định vai trò là một thiết chế hữu hiệu trong việc bảo vệ pháp luật, đấu tranh với các loại tội phạm, trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Mặc dù vậy, thực tiễn thi hành Luật và các Pháp lệnh còn cho thấy một số vấn đề vướng mắc, bất cập chủ yếu sau đây: Cơ chế bảo đảm cho VKSND thực hiện quyền hạn, trách nhiệm chưa đầy đủ và hiệu quả; Chế độ pháp lý của Kiểm sát viên chưa thực sự phù hợp với trách nhiệm, quyền hạn; Chế độ chính sách bảo đảm hoạt động của VKSND chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng; Kỹ thuật lập pháp đã có phần lạc hậu so với hiện nay…
2. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp năm 2013 đã có những nội dung mới quan trọng về chế định VKSND; đồng thời, bổ sung, làm rõ hơn những nguyên tắc mới, tiến bộ của tố tụng tư pháp liên quan trực tiếp đến hoạt động của VKSND, đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND (sửa đổi).
3. Trước yêu cầu phát triển và bảo vệ đất nước trong tình hình mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, để thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp là “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, cần sửa đổi Luật tổ chức VKSND để tạo cơ sở pháp lý đổi mới toàn diện về: hệ thống tổ chức, các nguyên tắc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chuẩn hóa các chức danh tư pháp và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự giám sát bên trong và bên ngoài hệ thống, nhất là sự giám sát của cơ quan dân cử...
4. Sửa đổi Luật để đáp ứng yêu cầu tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nâng cao vai trò, vị trí của VKSND tương đồng với Viện công tố/Viện kiểm sát các nước trên thế giới; tiếp thu hợp lý kinh nghiệm quốc tế đã thừa nhận và khẳng định như: vai trò của công tố trong điều tra và kiểm soát quyền lực, bảo vệ quyền con người, tham gia vào các quan hệ phi hình sự để bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Từ những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức VKSND là khách quan và cần thiết.
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, PHẠM VI SỬA ĐỔI LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1. Mục tiêu
Việc xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) nhằm cụ thể hóa các quy định liên quan đến VKSND trong Hiến pháp năm 2013; tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của VKSND theo yêu cầu cải cách tư pháp; bảo đảm thiết chế VKSND có đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới.
2. Quan điểm chỉ đạo
Việc xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các chủ trương cải cách tư pháp liên quan đến VKSND, thể hiện trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW, và Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Hai là, xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) phải trên cơ sở tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của VKSND; bảo đảm kế thừa truyền thống, kinh nghiệm của cơ quan công tố/kiểm sát của Nhà nước ta trong hơn 60 năm qua; khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Hiến pháp, Luật.
Ba là, xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) phải xuất phát từ đặc điểm cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của nước ta, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan dân cử và nhân dân; bảo đảm xây dựng hệ thống VKSND tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Bốn là, xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, trên cơ sở phù hợp với Hiến pháp và luật; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát.
Năm là, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố/kiểm sát các nước trên thế giới và trong khu vực, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và truyền thống văn hóa, truyền thống pháp lý của nước ta.
3. Phạm vi sửa đổi
Để thực hiện mục tiêu, quán triệt các quan điểm chỉ đạo, phạm vi sửa đổi Luật tổ chức VKSND lần này được xác định là sửa đổi căn bản, toàn diện, thay thế Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011).
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (SỬA ĐÔI)
1. Thành lập và kiện toàn Ban soạn thảo, Tổ biên tập. Đến nay, đã tổ chức 04 phiên họp Ban soạn thảo, nhiều lần xin ý kiến bằng văn bản. Ban soạn thảo làm việc theo chế độ thảo luận tập thể và quyết định theo đa số;
2. Tổng kết thực tiễn thi hành Luật tổ chức VKSND và các Pháp lệnh trong toàn ngành Kiểm sát dưới nhiều hình thức (tổ chức hội nghị, khảo sát…);
3. Nghiên cứu các nghị quyết, văn kiện của Đảng về cải cách tư pháp nói chung, tổ chức và hoạt động của VKSND nói riêng; Rà soát các văn bản pháp luật, điều ước quốc tế liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND;
4. Biên dịch và tham khảo Luật về Viện công tố/Viện kiểm sát 09 nước (Trung Quốc, Nga, Hungary, Ucraina, Pháp, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản); tổ chức các đoàn công tác ra nước ngoài nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm;
5. Nghiên cứu các đề án, đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ phục vụ cho việc xây dựng Luật;
6. Tổ chức nhiều hội thảo trong nước và quốc tế, nhiều tọa đàm bàn về định hướng sửa đổi Luật, về từng chương, từng chế định cụ thể trong dự thảo Luật với sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn có kinh nghiệm;
7. Lấy ý kiến toàn ngành Kiểm sát nhân dân nhiều lần về dự án Luật thông qua các hình thức: thảo luận ở từng đơn vị, theo cụm địa phương; góp ý trực tiếp hoặc qua các phương tiện thông tin, tuyên truyền; thi sáng kiến…;
8. Rà soát các văn bản cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để triển khai thực hiện Luật;
9. Xin ý kiến Chính phủ, các bộ, ngành hữu quan và các thành viên Ban soạn thảo về dự án Luật. Đối với những vấn đề có ý kiến khác nhau, dự thảo Luật thể hiện theo ý kiến của đa số.
10. Báo cáo Ủy ban Tư pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội về dự án Luật.
IV. NỘI DUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI CỦA DỰ THẢO LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI)
1. Nội dung của dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi)
Dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) có kết cấu gồm 07 chương, 13 mục, 107 điều. So với Luật tổ chức VKSND hiện hành, dự thảo giảm 04 chương, tăng thêm 57 điều luật. Trong đó, sửa đổi 73 điều, bổ sung 34 điều mới, không có điều nào được giữ nguyên. Dự thảo Luật đã thu hút Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011) và Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002.
Nội dung cụ thể của dự án Luật gồm:
1.1. Chương I: Những quy định chung
Chương I gồm có 10 điều (Từ Điều 01 đến Điều 10), quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, các lĩnh vực công tác, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND; giám sát đối với VKSND; trách nhiệm phối hợp của VKSND với các cơ quan, tổ chức; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động của VKSND; ngày truyền thống, phù hiệu của ngành KSND.
1.2. Chương II: Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND
Chương II gồm có 30 điều (Từ Điều 11 đến Điều 40), được chia thành 09 mục, quy định về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong từng công tác thực hiện chức năng, gồm: thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra; thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự; điều tra vụ án hình sự; kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp; tương trợ tư pháp về hình sự; thống kê hình sự, thống kê tội phạm và các công tác khác.
1.3. Chương III: Tổ chức của VKSND
Chương III gồm có 10 điều (Từ Điều 41 đến Điều 50), quy định về: hệ thống VKSND; phạm vi thẩm quyền, cơ cấu tổ chức, cơ cấu cán bộ của từng cấp Viện kiểm sát; vị trí, vai trò, thành phần và cơ chế làm việc của Ủy ban kiểm sát; thẩm quyền quyết định việc thành lập, chấm dứt hoạt động VKSND các cấp.
1.4. Chương IV: Cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên của VKSND
Chương IV gồm có 32 điều (Từ Điều 51 đến Điều 82), được chia thành 04 mục, quy định những vấn đề chung về cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên của VKSND (các loại chức danh; trách nhiệm chung; điều động, luân chuyển, biệt phái; tuổi nghỉ hưu); quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND các cấp; về tiêu chuẩn, ngạch, bậc, nhiệm kỳ, nhiệm vụ, quyền hạn, lời tuyên thệ, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên, các hội đồng xét tuyển, thi tuyển Kiểm sát viên; quy định những vấn đề đặc thù trong việc thực hiện nhiệm vụ của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên Cơ quan điều tra của VKSND; quy định các chức danh tư pháp đối với Kiểm tra viên và Trợ lý điều tra.
1.5. Chương V: Viện kiểm sát quân sự
Chương V gồm có 14 điều (Từ Điều 83 đến Điều 96), quy định những vấn đề có tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của VKSQS.
1.6. Về Chương VI: Bảo đảm hoạt động của VKSND
Chương VI gồm có 09 điều (Từ Điều 97 đến Điều 105), quy định các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của VKSND và cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên của VKSND (gồm: tổng biên chế, số lượng, cơ cấu Kiểm sát viên; kinh phí và cơ sở vật chất; tiền lương, phụ cấp; trang phục, giấy chứng minh, giấy chứng nhận; chế độ đào tạo, bồi dưỡng; chế độ đối với người nghỉ hưu, chuyển ngành, thôi phục vụ trong ngành KSND; khen thưởng, xử lý vi phạm).
1.7. Chương VII: Điều khoản thi hành
Chương VII gồm có 02 điều (Điều 106, Điều 107), quy định về hiệu lực thi hành của Luật và trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật.
2. Những nội dung mới cơ bản của dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi)
2.1. Những nội dung thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013
a) Dự thảo Luật đã làm rõ vị trí, vai trò của VKSND trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND được xác định là thiết chế kiểm soát hoạt động tư pháp, có trách nhiệm phối hợp, đồng thời, kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên đối với cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án và một số cơ quan khác trong việc thực hiện hoạt động tư pháp. Việc thực hiện chức năng của VKSND cũng chịu sự kiểm soát trở lại của các cơ quan tư pháp (Khoản 1 Điều 2; Khoản 1 Điều 3; các điều 4, 7; Khoản 3 Điều 8).
Đồng thời, là cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước, VKSND còn phải chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan dân cử và nhân dân. Dự thảo Luật đã làm rõ cơ chế giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với VKSND trong điều kiện tổ chức VKSND 4 cấp; bổ sung quy định về quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với VKSND (Điều 9).
b) Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 quy định VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Dự thảo Luật đã xác định rõ các nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của VKSND trong từng công tác thực hiện chức năng, đặc biệt là những thẩm quyền nhằm phát hiện, xử lý vi phạm trong hoạt động tư pháp (các điều 13, 15, 16, 18, 19, 20, 21, 23, 27, 30, 33); xác định rõ VKSND có trách nhiệm quyết định việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân, quyết định truy tố hoặc miễn truy tố, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ (các khoản 4, 6 Điều 15); tăng cường vai trò của VKSND trong các lĩnh vực phi hình sự, có quyền khởi tố vụ việc dân sự nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần (các khoản 1, 2 Điều 27); quy định rõ VKSND có trách nhiệm giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp với các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể (các điều 31, 32, 33); quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được tôn trọng, các quyền của VKSND được thực hiện trên thực tế (các khoản 1, 2 Điều 8).
c) Hiến pháp năm 2013 đã quy định bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, có liên quan trực tiếp đến hoạt động của VKSND như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp… Để thực hiện tốt các nguyên tắc này, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tăng cường vai trò của công tố ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; (các điều 11, 12, 13); tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra thể hiện việc quy định Viện kiểm sát có quyền tiến hành một số hoạt động điều tra để kiểm tra, bổ sung chứng cứ tài liệu trước khi phê chuẩn, ban hành quyết định hoặc khi có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm (các điều 14, 15, 16, 20); xác định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Cơ quan điều tra VKSND tiến hành điều tra các tội xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án do cán bộ cơ quan tư pháp, người được giao tiến hành một số hoạt động tư pháp thực hiện (Điều 21). Trong giai đoạn xét xử, Kiểm sát viên có trách nhiệm tranh tụng tại phiên tòa, phân định rõ trách nhiệm của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử (Khoản 2 Điều 18). Đồng thời, dự thảo Luật đã đổi mới tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên nhằm nâng cao trình độ, năng lực của Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ mới (các điều 70, 71, 72, 73).
d) Về tổ chức VKSND, trên cơ sở các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, dự thảo Luật đã có những điểm mới sau đây:
- Để cụ thể hóa nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo của Viện trưởng VKSND tối cao, nguyên tắc Kiểm sát viên hoạt động tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, dự thảo Luật đã làm rõ nội dung, phạm vi của nguyên tắc tập trung thống nhất (khoản 1 Điều 6); xác định rõ vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKSND tối cao và Viện trưởng VKSND các cấp khác (các điều 56, 57, 59, 60, 61); điều chỉnh quy định về vai trò của Ủy ban kiểm sát bảo đảm phù hợp với việc xác định thẩm quyền và trách nhiệm tố tụng của Viện trưởng VKSND trong hoạt động tư pháp (các điều 44, 46, 48, 86, 89); làm rõ mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và Viện trưởng trong việc thực hiện các nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, bổ sung quy định về nguyên tắc xác định nhiệm vụ của từng ngạch Kiểm sát viên, bảo đảm phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tư pháp (khoản 3 Điều 6, Điều 68).
- Về tổ chức hệ thống VKSND, dự thảo Luật quy định hệ thống VKSND gồm 4 cấp với tên gọi của VKSND các cấp như Kết luận 79-KL/TW đã chỉ rõ. Riêng đối với VKSND cấp thứ tư, đã thể hiện thành 2 phương án là “VKSND khu vực” hoặc “VKSND cấp huyện” theo Kết luận 92-KL/TW (Điều 41); Bổ sung các quy định về phạm vi thực hiện chức năng, cơ cấu tổ chức của VKSND cấp cao theo Kết luận 79-KL/TW, theo đó, VKSND cấp cao được tổ chức thành các “viện chuyên trách” phù hợp với việc thực hiện thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao và tương ứng với các Tòa chuyên trách của TAND cấp cao (Khoản 2 Điều 42; các điều 45, 46, 59, 62).
- Về các chức danh tư pháp của VKSND, dự thảo Luật đã tăng thời hạn bổ nhiệm Kiểm sát viên, quy định chế độ thi tuyển vào các ngạch Kiểm sát viên nhằm thực hiện chủ trương “tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp…”, “nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp” (các điều 66, 76, 77); quy định tuổi làm việc đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao, là chức danh tư pháp đặc biệt, có trình độ chuyên sâu, giàu kinh nghiệm, là 60 tuổi đối với nữ, 65 tuổi đối với nam theo tinh thần Kết luận 92-KL/TW (Điều 55); quy định Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, Trợ lý điều tra có thang, bậc lương riêng, quy định các chế độ phụ cấp, các hình thức khen thưởng đặc thù của ngành KS, chế độ đối với người nghỉ hưu, chuyển ngành, thôi phục vụ trong ngành KSND nhằm thực hiện chủ trương “có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp” (các điều 99, 100, 103, 104); bổ sung quy định về chính sách bảo đảm kinh phí cho sinh viên, học viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Ngành Kiểm sát, chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ VKSND là người dân tộc ít người và ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa nhằm thể chế hóa chủ trương “có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp” (các khoản 2, 3 Điều 102); bổ sung quy định nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động cho VKSND từ ngân sách địa phương nhằm thể chế hóa chủ trương “có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan tư pháp từ khoản vượt thu ngân sách của địa phương” của Nghị quyết 49-NQ/TW, đổi mới quy định về những vấn đề nhà nước cần ưu tiên đầu tư cho ngành KSND trong giai đoạn hiện nay nhằm thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp về bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp (các khoản 1, 3 Điều 98).
2.2. Những nội dung góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật tổ chức VKSND năm 2002 và các Pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý toàn diện, rõ ràng cho việc triển khai thực hiện các hoạt động của VKSND trong thực tiễn
a) Về chức năng, nhiệm vụ: Dự thảo Luật đã quy định rõ đối tượng, nội dung, phạm vi, mục đích của từng chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, xác định rõ các công tác thực hiện chức năng và thẩm quyền cơ bản của VKSND trong từng lĩnh vực công tác, đặt nền tảng cho việc hình thành một cách rõ ràng, mạch lạc cơ sở lý luận về chức năng của VKSND, bảo đảm thống nhất nhận thức và hoạt động có hiệu quả trên thực tế (Khoản 1 Điều 2; Khoản 1 Điều 3; các mục 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 Chương II); bổ sung quy định về các công tác khác VKSND đang thực hiện mà chưa được Luật quy định (như hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp; thống kê tội phạm, thống kê hình sự; nghiên cứu khoa học; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng; thông tin, tuyên truyền) (Mục 9 Chương II); quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND, bảo đảm tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện các quyền của VKSND (Điều 5).
b) Về tổ chức bộ máy: Dự thảo Luật đã kiện toàn tổ chức bộ máy ở VKSND khu vực (hoặc cấp huyện) theo hướng tổ chức các đơn vị cấp phòng để đáp ứng yêu cầu về khối lượng công việc và phù hợp với số lượng cán bộ hiện nay của VKSND cấp này. Tuy nhiên, đối với các VKSND khu vực (hoặc cấp huyện) ở miền núi, hải đảo, khối lượng công việc ít thì vẫn giữ nguyên mô hình các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc như hiện nay nhằm bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở từng Viện kiểm sát (Khoản 1 Điều 49); Bổ sung quy định về việc thành lập và chấm dứt hoạt động của VKSND các cấp (Khoản 1 Điều 50).
c) Về các chức danh tư pháp: Dự thảo Luật đã quy định rõ cơ cấu các chức danh tư pháp và chức danh khác của từng cấp Viện kiểm sát (Khoản 2 các điều 43, 45, 47, 49, 88, 91; Khoản 3 Điều 85); đề xuất quy định Kiểm sát viên được bổ nhiệm để thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện một số nhiệm vụ đặc thù theo sự phân công của Viện trưởng để tạo tính chủ động, linh hoạt trong bố trí, sử dụng cán bộ; rèn luyện đội ngũ Kiểm sát viên, đồng thời nâng cao chất lượng các khâu công tác (Phương án 2 Điều 63); tổ chức 04 ngạch Kiểm sát viên nhằm khắc phục tình trạng phải ủy quyền cho VKSND cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm những vụ án do VKSND tối cao kiểm sát điều tra, lập cáo trạng truy tố; đổi mới tiêu chuẩn bổ nhiệm, kết hợp các hình thức xét tuyển và thi tuyển vào các ngạch Kiểm sát viên (trừ Kiểm sát viên VKSND tối cao) nhằm khắc phục những bất cập trong việc tổ chức hội đồng tuyển chọn, phát huy năng lực của cán bộ, Kiểm sát viên nhất là ở cấp cơ sở (các điều 65, 70, 71, 72, 73, 76, 77); bổ sung quy định về lời tuyên thệ của Kiểm sát viên (Điều 67); bổ sung quy định Kiểm tra viên và Trợ lý điều tra là các chức danh tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự, tạo nguồn bổ sung cho lực lượng Kiểm sát viên, Điều tra viên (các điều 80, 82).
d) Về bảo đảm hoạt động của VKSND: Dự thảo Luật đã bổ sung quy định về ngày truyền thống, phù hiệu của ngành KSND nhằm ghi nhận các giá trị truyền thống của ngành Kiểm sát (Điều 10); giao cho Viện trưởng VKSND tối cao thẩm quyền quyết định biên chế; số lượng và cơ cấu kiểm sát viên của các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao và các VKSND cấp dưới để bảo đảm tính chủ động, linh hoạt trong việc bố trí, sắp xếp cán bộ (Điều 97); xác định rõ thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Viện trưởng VKSND tối cao trong việc quy định, cấp phát trang phục, giấy chứng minh, giấy chứng nhận các chức danh tư pháp (Điều 101); sửa đổi cơ chế trình kinh phí hoạt động của VKSQS, theo hướng Viện trưởng VKSQSTW lập dự toán báo cáo Bộ Quốc phòng đề nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định, không phải phối hợp với VKSND tối cao lập dự toán như hiện nay cho phù hợp với thực tiễn (Khoản 2 Điều 96).
đ) Về kỹ thuật lập pháp:
- Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) đã quy định toàn diện các vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND trên thực tế, khắc phục tình trạng nhiều văn bản tản mạn, chồng chéo.
- Dự thảo Luật chỉ quy định những thẩm quyền cơ bản của VKSND trong từng lĩnh vực công tác để tránh chồng chéo, trùng lặp với các luật về tố tụng, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tính ổn định của Luật (các mục 1, 2, 3, 6 Chương II); riêng đối với các công tác hiện chưa có luật chuyên ngành điều chỉnh hoặc luật chuyên ngành quy định không đầy đủ thì dự thảo Luật đã quy định cụ thể hơn, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện (gồm: công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam - Mục 5; công tác kiểm sát thi hành án dân sự, hành chính - Mục 7; công tác giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp - Mục 8 Chương II).
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU
1. Về đổi mới mô hình VKSND cấp huyện (Khoản 4 Điều 41 dự thảo Luật)
Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị yêu cầu xây dựng 2 phương án: Phương án 1: tổ chức VKSND theo khu vực như Kết luận số 79-KL/TW; Phương án 2: tổ chức VKSND tương ứng với TAND sơ thẩm đặt tại các đơn vị hành chính cấp huyện.
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Đa số ý kiến cho rằng: việc tổ chức VKSND cấp huyện như phương án 2 là phù hợp với yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Trong các lĩnh vực công tác thực hiện chức năng, phần lớn công việc đòi hỏi mối quan hệ chặt chẽ với Cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án, trong khi các cơ quan này vẫn giữ nguyên hệ thống tổ chức gắn liền với các đơn vị hành chính như hiện nay. Tổ chức VKSND cấp huyện là cơ sở quan trọng để thực hiện tốt yêu cầu của Đảng về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra; bảo đảm yêu cầu xây dựng nền tư pháp gần dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận công lý, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả người dân, Nhà nước và xã hội.
- Một số ý kiến cho rằng: cần tổ chức VKSND theo khu vực như Kết luận số 79-KL/TW để khẳng định vị trí và tăng cường tính độc lập của cơ quan tư pháp, tập trung nguồn lực (cơ sở vật chất và con người) cho công tác tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; tránh tình trạng tổ chức cơ quan tư pháp bị xáo trộn do việc sáp nhập, chia tách các đơn vị hành chính cấp huyện, tạo điều kiện nhanh chóng hiện đại hóa nền tư pháp.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 41 dự thảo Luật.
2. Về vai trò của Ủy ban kiểm sát (các điều 44, 46, 48, 86, 89 dự thảo Luật)
Theo quy định hiện hành, Ủy ban kiểm sát có nhiệm vụ thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động của VKSND như phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác hàng năm; dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; báo cáo của Viện trưởng VKSND trước cơ quan dân cử…, xem xét và quyết định những vụ án hình sự, dân sự, hành chính quan trọng.
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Đa số ý kiến đề nghị: tiếp tục quy định Ủy ban kiểm sát có vai trò thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động của VKSND như hiện nay. Riêng đối với việc giải quyết án, Ủy ban kiểm sát có trách nhiệm thảo luận và cho ý kiến trước khi Viện trưởng quyết định. Thủ tục lấy ý kiến Ủy ban kiểm sát là bắt buộc, nhằm kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ với nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành, phát huy tác dụng tích cực của cơ chế Ủy ban kiểm sát trong thực tiễn hơn 10 năm qua, đồng thời, phù hợp với tư cách tiến hành tố tụng và nguyên tắc chịu trách nhiệm trong hoạt động tư pháp của Viện trưởng VKSND được xác định trong các luật tố tụng.
- Một số ý kiến đề nghị: tiếp tục quy định Ủy ban kiểm sát có vai trò thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động của VKSND nhưng không quy định trong Luật vai trò của Ủy ban kiểm sát đối với việc giải quyết án để tạo quyền chủ động cho Viện trưởng.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại các điều 44, 46, 48, 86, 89 dự thảo Luật.
3. Về Kiểm sát viên
3.1. Về nhiệm vụ của Kiểm sát viên (Điều 63 dự thảo Luật)
Khoản 1 Điều 42 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: “Kiểm sát viên được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Đa số ý kiến đề nghị: Kiểm sát viên chỉ được bổ nhiệm để làm các công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, để gắn với chức danh tư pháp, đề cao vai trò, trách nhiệm của chức danh Kiểm sát viên.
- Một số ý kiến đề nghị: ngoài các công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên còn được bổ nhiệm để thực hiện các nhiệm vụ đặc thù theo sự phân công của Viện trưởng, nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn điều động, luân chuyển Kiểm sát viên, tạo tính chủ động, linh hoạt trong bố trí, sử dụng cán bộ, rèn luyện đội ngũ Kiểm sát viên, nâng cao chất lượng các lĩnh vực công tác của Viện kiểm sát.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 63 dự thảo Luật.
3.2. Về nhiệm kỳ của Kiểm sát viên (Điều 66 dự thảo Luật)
Theo quy định hiện hành, nhiệm kỳ của Kiểm sát viên là 05 năm kể từ ngày được bổ nhiệm.
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Đa số ý kiến đề nghị: Kiểm sát viên VKSND tối cao được bổ nhiệm không thời hạn vì đây là các cán bộ có trình độ, kinh nghiệm, đã được sàng lọc qua nhiều loại Kiểm sát viên. Các Kiểm sát viên khác được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
- Một số ý kiến đề nghị: tất cả các Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu đều có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm để bảo đảm cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối với tất cả các Kiểm sát viên.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 66 dự thảo Luật.
Trên đây là những nội dung chính của Dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi). Thay mặt Ban soạn thảo, Viện trưởng VKSND tối cao kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
Nơi nhận: VIỆN TRƯỞNG
- Như trên;
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội;
- Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Ban chỉ đạo CCTP Trung ương;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Văn phòng Chủ tịch nước; Nguyễn Hòa Bình
- Lưu: VT, VKH.