Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án kinh doanh thương mại, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu thấy cần thông báo đến Viện Kiểm sát nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để rút kinh nghiệm đối với vụ án về “Tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh” do Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết có vi phạm nghiêm trọng như sau:
1. Nội dung vụ án:
Thửa đất số T45-XM-03/BĐ-ĐC xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, có diện tích 142.192,4m2 được UBND tỉnh BR - VT cấp giấy CNQSD đất cho Công ty Container Sài gòn (TNHH) vào năm 2004 với hình thức cho thuê đất để đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái biển Bến Cát- Hồ Tràm. Đến năm 2007, chuyển sang hình thức nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất. Công ty Container Sài gòn đã được UBND tỉnh BR - VT cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư số 19/GCN.UB ngày 25/5/2004.
Các bên nguyên đơn và bị đơn xác nhận có ký kết với nhau hợp đồng hợp tác kinh doanh số 09/ 2015/HĐHTKD ngày 20/12/2015 với nội dung bên A (Công ty container Sài gòn TNHH) góp quyền sử dụng đất của dự án “Khu du lịch sinh thái biển Hồ Tràm”, được bên A định giá là 102.378.528.000 đồng tương đương với 50,58%, bà Bành Mỹ Hà (bên B) và bà Nguyễn Thị Kim Phượng (bên C) là nhà đầu tư tài chính, mỗi người đóng góp 50 tỷ đồng, tương đương với 24,71 %. Ngày 25/4/2016, các bên tiếp tục ký phụ lục hợp đồng số 01 của hợp đồng hợp tác kinh doanh số 09/ 2015/HĐHTKD, với nội dung Công ty container Sài gòn TNHH đồng ý chuyển nhượng toàn bộ vốn góp của mình trong dự án cho bà Hà và bà Phượng. Bà Hà và bà Phượng mỗi người đồng ý nhận chuyển một phần vốn góp của bên A trị giá chuyển nhượng 51.189.264.000 đồng. Các bên B và C thỏa thuận thanh toán cho bên A theo kỳ thanh toán như sau:
Đợt 1: Thanh toán 15.000.000.000 đồng kể từ ngày ký kết phụ lục hợp đồng;
Đợt 2: Thanh toán 30.000.000.000 đồng, thời hạn thanh toán trong vòng 130 ngày kể từ ngày bên B bên C thanh toán đợt 1;
Đợt 3: Thanh toán 30.000.000.000 đồng, thời hạn thanh toán trong vòng 60 ngày kể từ ngày bên B bên C thanh toán đợt 2;
Đợt 4: Thanh toán 13.378.528.000 đồng, thời hạn thanh toán trong vòng 60 ngày kể từ ngày bên B bên C thanh toán đợt 3;
Đợt 5: Thanh toán 14.000.000.000 đồng, thời hạn thanh toán trong vòng 60 ngày kể từ ngày bên B bên C thanh toán đợt 4.
Sau khi nhận được thanh toán đợt 2, bên A tiến hành các thủ tục pháp lý liên quan đến việc chuyển nhượng dự án cho bên B, bên C theo cách phù hợp được quy định tại điểm đó và sau khi nhận thanh toán đợt 3 bên A tiến hành ủy quyền cho người bên B, bên C làm đại diện của mình tham gia vào Ban quản lý dự án.
Sau khi nhận được thanh toán đợt 4, bên A tiến hành bàn giao toàn bộ giấy tờ pháp lý cho dự án và kết quả chuyển nhượng dự án cho bên B, bên C. Trường hợp bên A không thực hiện nghĩa vụ của mình theo phụ lục 01 này thì bên B và bên C có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng và bên A phải trả lại số tiền đã nhận và phải bồi thường một khoản tiền tương đương với khoản tiền đã nhận cho bên B và bên C.
Đến ngày 26/4/2016, ông Lê Hữu Chí đại diện Công ty Container Sài Gòn và bà Bành Mỹ Hà, bà Nguyễn Thị Kim Phượng ký thỏa thuận đặt cọc số 09/TTĐC, với nội dung bà Hà, bà Phượng đặt cọc cho ông Chí số tiền 15.000.000.000 đồng, với mục đích bà Hà, bà Phượng mua toàn bộ phần vốn góp của bên A trong dự án. Bên A nhận cọc và cam kết chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của bên A trong dự án cho bà Hà, bà Phượng, với giá chuyển nhượng 102.378.528.000 đồng. Thời hạn chuyển số tiền 15 tỷ là 02 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc và sau khi nhận tiền cọc 30 ngày các bên tiến hành liên hệ và tìm hiểu các thủ tục pháp lý liên quan đến việc chuyển nhượng dự án; các bên còn thỏa thuận phạt cọc tại Điều 5 của Hợp đồng; cũng trong ngày 26/4/2016, ông Chí đã nhận số tiền 15 tỷ đồng của bà Hà, bà Phượng.
Bà Hà và bà Phượng đã giao cho Công ty Container Sài Gòn tổng số tiền là 45 tỷ đồng, cụ thể:
Đợt 1: Ngày 26/4/2016, thanh toán 15.000.000.000 đồng, đúng cam kết;
Đợt 2: Ngày 25/8/2016, thanh toán 5.000.000.000 đồng, sai so với cam kết thanh toán là 5tỷ/ 30 tỷ đồng;
Đợt 3: Ngày 26/9/2016, thanh toán 15.000.000.000 đồng, sai so với cam kết thanh toán là 15tỷ/ 30 tỷ đồng;
Đợt 4: Ngày 05/10/2016, thanh toán 15.000.000.000 đồng.
Ngoài số tiền trên, ông Lê Hữu Chí có nhận riêng của bà Hà, bà Phượng số tiền 5 tỷ đồng thông qua ông Đặng Thế Khôi vào khoảng tháng 4/2017 (số tiền này các bên tự giải quyết với nhau). Ngoài ra, bà Hà, bà Phượng còn bỏ ra số tiền 3.548.971.391 đồng đầu tư xây dựng hàng rào, tu bổ công trình (tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn nâng mức tiền bỏ ra xây dựng công trình là 6.879.537.000 đ), nhưng Công ty Container Sài Gòn vẫn không thực hiện đúng thỏa thuận, không thực hiện đúng điều 4.1 của Phụ lục số 01 tiến hành các thủ tục pháp lý liên quan đến việc chuyển nhượng dự án theo thỏa thuận, không thông báo cách thức thực hiện, thời gian triển khai các thủ tục chuyển nhượng vốn góp, còn buộc bà Hà, bà Phượng tạm ngừng các công việc triển khai xây dựng dự án.
Ngày 23/10/2018, bà Bành Mỹ Hà, bà Nguyễn Thị Kim Phượng nộp đơn khởi kiện tại TAND huyện Xuyên Mộc, yêu cầu Tòa án xem xét và công nhận Phụ lục hợp đồng số 01 đã ký kết giữa Công ty Container Sài Gòn với bà Hà, bà Phượng; yêu cầu Công ty Container Sài Gòn chuyển nhượng phần vốn góp của mình bằng quyền sử dụng đất xây dựng dự án có có diện tích 142.192,4m2 với giá thỏa thuận 102.378.528.000 đồng cho bà Hà, bà Phượng để tiếp tục thực hiện dự án. Trường hợp Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà, bà Phượng mà tuyên hủy hoặc vô hiệu hợp đồng cũng như Phụ lục hợp đồng và các thỏa tuận kèm theo thì đề nghị giải quyết hậu quả của việc hủy hoặc vô hiệu hợp đồng và buộc Công ty Container Sài Gòn phải thanh tóan số tiền 6.879.537.000 đ bà Hà, bà Phượng đã bỏ ra.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, bên bị đơn cho rằng do bên nguyên đơn không thanh toán tiền theo thỏa thuận, cụ thể là sau khi ký kết phụ lục hợp đồng và thực hiện nghĩa vụ chuyển tiền của đợt 1.“10 ngày kể từ ngày ký phụ lục” nguyên đơn phải thanh toán 15 tỷ, lần này nguyên đơn thanh toán đúng thời gian, nhưng lần 2 các bên cam kết 130 ngày kể từ ngày thanh toán lần1, tức là kể từ ngày 26/4/2016 đến ngày 5/9/2016 phải chuyển số tiền 30 tỷ theo cam kết, nhưng vào ngày 25/8/2106, nguyên đơn chỉ chuyển cho bị đơn được 05 tỷ là vi phạm về nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn, lần 3 là 130 ngày kể từ ngày thanh toán đợt 2 (từ ngày 25/8/2016 đến 05/01/ 2017) phải chuyển cho bên A, 30 tỷ nhưng nguyên đơn chỉ chuyển được 25 tỷ.
Như vậy, phía bà Hà, bà Phượng mới chỉ thanh toán được số tiền 45 tỷ đồng là đã chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận và từ sau khi thanh toán đợt 4, bà Hà, bà Phượng không thanh toán một khoản tiền nào theo cam kết cho bên A. Bên bị đơn cho rằng nguyên đơn vi phạm về thời gian và số tiền theo như thỏa thuận, nên yêu cầu hủy hợp đồng và giải quyết hậu quả hủy hợp đồng theo pháp luật.
Bên nguyên đơn cho rằng do bên bị đơn đã nhận tiền của nguyên đơn nhưng bên bị đơn không làm các thủ tục pháp lý để nguyên đơn đầu tư, nên nguyên đơn chưa thanh toán hết số tiền như thỏa thuận. Bị đơn chưa có văn bản nào nhắc việc nguyên đơn chậm thanh toán hay thanh toán chưa đủ tiền. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn và nguyên đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Tại Bản án sơ thẩm số 06/2020/KDTM-ST ngày 26/10/2020 của Tòa án nhân dân huyên Xuyên Mộc, quyết định:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bành Mỹ Hà, bà Nguyễn Thị Kim Phượng đối với Công ty Container Sài Gòn về việc “Tranh chấp hợp đồng, hợp tác kinh doanh”, hủy hợp đồng, hợp tác kinh doanh số 09/2015/HĐHTKD ngày 20/12/2015 và phụ lục hợp đồng số 01 ngày 25/4/2016 của hợp đồng, hợp tác kinh doanh số 09/2015/HĐHTKD ngày 20/12/2015 cũng như thỏa thuận đặt cọc số 09/TTĐC_2016 ngày 26/4/2016 giữa hai bên bà Hà, bà Phượng và Công ty Container Sài Gòn.
Buộc Công ty Container Sài Gòn phải hoàn trả lại cho bà Hà, bà Phượng số tiền 109.055.298.000 đồng;
Ngày 31/3 và ngày 08/4/2021, Tòa án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã mở phiên tòa xét xử vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên, áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kim Phượng, bà Bành Mỹ Hà; chấp nhận kháng cáo của Công ty Container Sài Gòn (TNHH), ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Container Sài Gòn (TNHH) tại phiên tòa phúc thẩm; sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2020/KDTM-ST ngày 26/10/2020 của Tòa án nhân dân huyên Xuyên Mộc.
2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Xác định quan hệ tranh chấp của vụ án: Căn cứ vào Phụ lục hợp đồng số 01 là một bộ phận không thể tách rời của Hợp đồng hợp tác đầu tư số 09, do đó việc tranh chấp giữa bà Hà, bà Phượng với Công ty Container Sài Gòn được xác định là tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh và hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp, chứ không đơn thuần là tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh như án sơ thẩm nhận định.
Về hình thức, án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà, bà Phượng về đề nghị tiếp tục được thực hiện hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp mà chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Container Sài Gòn hủy hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp là đúng. Tuy nhiên, về nội dung thì án sơ thẩm lại nhận định và quyết định Công ty Container Sài Gòn mặc nhiên chấp nhận việc thanh toán chậm của bà Hà, bà Phượng nhưng sau đó lại đơn phương chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp với bà Hà, bà Phượng nên phải chịu phạt cọc, phải hoàn trả số tiền đã nhận, phải bồi thường một khoản tiền tương đương khoản tiền đã nhận cho nguyên đơn thể hiện sự đánh giá, nhận định và quyết định của bản án sơ thẩm là chưa khách quan, toàn diện và đầy đủ, dẫn đến việc áp dụng không chuẩn xác về quyền và nghĩa vụ song vụ của bà Hà, bà Phượng và Công ty Container Sài Gòn đã được các bên thỏa thuận và ghi nhận tại Điều 4, Điều 5 của Phụ lục hợp đồng số 01, nên bản án phúc thẩm đã không chấp nhận kháng cáo của bà Hà, bà Phượng; chấp nhận kháng cáo của Công ty Container Sài Gòn.
Xét về hậu quả của việc chuyển nhượng phần vốn góp giữa bà Hà, bà Phượng với Công ty Container Sài Gòn không thành: Căn cứ vào Điều 5 của Phụ lục hợp đồng số 01 thì trường hợp bà Hà, bà Phượng không thanh toán đúng thời hạn thì Công ty Container Sài Gòn có quyền đơn phương chấm dứt việc chuyển nhượng phần vốn góp và không phải hoàn trả lại số tiền 45 tỷ đồng đã nhận cho bà Hà, bà Phượng. Do đó, theo thỏa thuận giữa bà Hà, bà Phượng với Công ty Container Sài Gòn thì khi hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp bị vô hiệu mà lỗi hoàn toàn thuộc về bà Hà, bà Phượng nên không làm phát sinh nghĩa vụ của Công ty Container Sài Gòn phải làm thủ tục chuyển nhượng phần vốn góp cho bà Hà, bà Phượng, vì Công ty Container Sài Gòn vẫn là chủ đầu tư của Dự án Khu du lịch sinh thái biển Bến Cát – Hồ Tràm, mà chỉ có thể xem xét giải quyết đối với yêu cầu đối với giá trị của 2 hạng mục mà bên bà Hà, bà Phượng đã đầu tư vào dự án và các chi phí phát sinh theo yêu cầu là 6.879.537.000 đồng.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Công ty Container Sài Gòn có quan điểm, vì bà Hà, bà Phượng từng có quan hệ hợp tác đầu tư với Công ty Container Sài Gòn trước khi nhận chuyển nhượng phần vốn góp và thực tế có đầu tư vào Dự án Khu du lịch sinh thái biển Bến Cát – Hồ Tràm (án sơ thẩm chấp nhận theo các hóa đơn, chứng từ là 4.055.298.021 đồng). Công ty Container Sài Gòn đã đồng ý tự nguyện hỗ trợ tổng các khoản cho bà Hà, bà Phượng là 96.879.537.000 đồng, nên bản án phúc thẩm sửa bản án sở thẩm, ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Container Sài Gòn.
Từ vụ án trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông báo đến các Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh nghiên cứu rút kinh nghiệm chung để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính trong thời gian tới.
Bài viết: Trương Thị Lan Anh – Phòng 10