Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa:
Nguyên đơn: Ông Trần Công Nga, sinh năm: 1964; địa chỉ: 2400 đường Lê Duẩn, phường Phước Nguyên, TP.Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bị đơn: Bà Phạm Thị Thanh Toàn, sinh năm: 1954; địa chỉ: Tổ 4, thôn 9, xã Long Sơn, TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Hồ Trung Chánh – Luật sư thuộc đoàn luật sư TP.Hồ Chí Minh; Địa chỉ: 524/13 Nguyễn Đình Chiểu, phường 4, quận 3, TP. Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Bùi Thị Thìn, sinh năm 1976; địa chỉ: 2400 đường Lê Duẩn, phường Phước Nguyên, TP.Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Thìn là ông Trần Công Nga.
2. Ông Phan Văn Bơ, sinh năm: 1958; địa chỉ: Thôn 9, xã Long Sơn, TP.Vũng Tàu, tỉnh BR-VT.
Người làm chứng:
Ông Phan Đình Thông, sinh năm 1982; địa chỉ: Xã Khánh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An
Xét thấy quá trình thụ lý giải quyết vụ án cấp sơ thẩm có vi phạm. VKSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm chung.
1- Nội dung vụ án và quá trình tố tụng
Ngày 20/5/2009 ông Trần Công Nga và bà Phạm Thị Thanh Toàn lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy viết tay với nội dung bà Toàn đồng ý chuyển nhượng cho ông Nga diện tích 3.000m2, thuộc thôn 9, xã Long Sơn, TP.Vũng Tàu với giá 300 triệu đồng, đã thanh toán xong. Đến ngày 15/01/2012 bà Toàn nhận của ông Nga số tiền 20.000.000 đồng ghi rõ “Đây là số tiền dùng để chi phí cho việc làm thủ tục tách thửa và chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc thửa 238 tờ bản đồ số 21 đã được UBND TP.Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 117620 ngày 09/01/ 2012 đối với phần diện tích đất theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thị Thanh Toàn và ông Trần Công Nga lập ngày 20/5/2009, phía dưới bà Toàn ký nhận và có ghi: “Tôi Phạm Thị Thanh Toàn đồng ý chuyển nhượng cho ông Nga diện tích 1500m2 đất trong thửa 238 tờ bản đồ số 21 thuộc thôn 9, xã Long Sơn. Hợp đồng giữa tôi và ông Nga lập ngày 20/5/2009 không còn giá trị”. Trong quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm bà Toàn trình bày diện tích 1.500m2 đất bà Toàn chuyển nhượng cho ông Nga theo ý kiến của ông Nga, bà Toàn đã tách chuyển nhượng cho ông Phan Đình Thông 500m2; tách thửa cho ông Phan văn Bơ 700m2, còn lại 300m2 tách cho ai bà Toàn không xác định được người mua của ông Nga.
Ngày 30/5/2018 ông Trần Công Nga khởi kiện yều cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 20-5-2009 và giấy nhận tiền tách thửa ngày 15/01/2012 giữa ông Nga với bà Toàn đối với diện tích đất 1.500m2 thuộc thửa 238, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Long Sơn, TP.Vũng Tàu. Buộc bà Toàn phải trả lại cho ông Nga số tiền 150.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm ông Nga rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà Toàn trả lại 150.000.000 đồng.
Bản án số 78/2019/DS-ST ngày 11/11/2019 của Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu tuyên xử:
1- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20-5-2009 và giấy nhận tiền tách thửa ngày 15-01-2012,đối với diện tích đất chuyển nhượng 1.500m2, thuộc thửa 238, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại thôn 9, xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 117620, ngày 09-01 -2012; Thửa đất mới một phần 332, 177, tờ bản đồ số mới 133, 134, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 647749, ngày 18-4-2013, người sử dụng đất là bà Phạm Thị Thanh Toàn và người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ông Trần Công Nga có hiệu lực.
2- Công nhận ông Trần Công Nga và bà Bùi Thị Thìn được quyền sử dụng 918,4m2, đất nông nghiệp thuộc một phần thửa đất 332, 177, tờ bản đồ số 133, 134 (có số hiệu góc thửa bảng kê tọa độ từ 01 đến 10), theo sơ đồ vị trí thửa đất do chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng Tàu lập ngày 10 -9 -2019 và theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 647749, do Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp ngày 18 4-2013, người sử dụng đất là bà Phạm Thị Thanh Toàn.
3- Bà Phạm Thị Thanh Toàn có nghĩa vụ giao lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 647749, ngày 18-4 -2013, cho vợ chồng ông Trần Công Nga và bà Bùi Thị Thìn. Ông Trần Công Nga và bà Bùi Thị Thìn được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để đăng ký, kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
4- Án phí DSST: Bị đơn bà Phạm Thị Thanh Toàn phải chịu ánh phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ và 39.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Ngày 21/11/2019 bà Toàn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị sửa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 26/12/2019 Tòa án nhân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ra Thông báo thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm. Ngày 12/3/2020 Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu mở phiên tòa xét xử phúc thẩm; tại Bản án số 16/2020/DS-PT ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyềt định: Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Phạm Thị Thanh Toàn, hủy bản án dân sự sơ thẩm số 78/2019/DS-ST ngày 11/11/2019 của Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu giải quyềt lại theo thủ tục sơ thẩm.
2- Những vấn đề cần rút kinh nghiệm.
- Theo tài liệu chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm thì ông Trần Công Nga là Luật sư có làm dịch vụ xin cấp giấy chứng nhận QSD đất cho bà Phạm Thị Thanh Toàn. Nội dung này được thể hiện tại đơn cớ 02 quyết định giải quyết tranh chấp đất do ông Trần Công Nga lập và ký 14-6-2011 đề nghị UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xác nhận để bà Toàn xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Căn cứ lời khai của bà Toàn và đơn cớ nêu trên cho thấy việc ông Nga và bà Toàn ký hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ngày 20-5-2009 là nhằm thực hiện công việc dịch vụ pháp lý mà ông Nga đi làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận QSD đất cho bà Toàn, khi thực hiện xong bà Toàn trả cho ông Nga diện tích đất 3000m2. Hơn nữa khi lập hợn đồng chuyển nhượng diện tích đất này bà Toàn chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất. Hợp đồng viết tay, không có công chứng, chứng thực.
Đến ngày 15-01-2012 bà Toàn nhận của ông Nga số tiền 20 triệu đồng ghi rõ “đây là số tiền dùng để chi phí cho việc làm thủ tục tách thửa và chuyển nhượng quyền sử dụng, phía dưới bà Toàn ký tên và ghi: Tôi đồng ý chuyển nhượng cho ông Trần Công Nga diện tích đất 1.500m2 trong thửa 238, tờ bản đồ 21, xã Long Sơn. Hợp đồng giữa tôi và ông Nga lập ngày 20-5-2009 không còn giá trị. Thực tế hai bên không có việc chuyển nhượng diện tích đất 3000m2 với giá 300 triệu đồng; hai bên chưa giao nhận đất và tiền cho nhau, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà Toàn lập ngày 20-5-2009 và Giấy nhận tiền tách thửa lập ngày 15-01-2012 có hiệu lực là chưa đánh giá một cách khách quan, đầy đủ sự thật của các giao dịch này. Nội dung của giao dịch chuyển nhượng QSD đất giữa bà Toàn với ông Nga là vi phạm Điều 124 BLDS năm 2015.
- Tòa án cấp sơ thẩm không xác định và đưa đầy đủ các đương sự tham gia tố tụng.
Theo tài liệu các bên đương sự cung cấp cho thấy ngày 15-12-2012 bà Toàn và ông Nga lập giấy nhận tiền. Phía sau giấy nhận tiền này ông Nga có đánh máy và ký xác nhận: Tôi Trần Công Nga là người đã chuyển nhượng phần đất của chị Toàn có diện tích 1500m2 thuộc thửa 238, tờ bản đồ số 21 thuộc xã Long Sơn.
Nay số diện tích đất này tôi đã đồng ý chuyển nhượng lại cho anh Phan Văn Bơ 700m2 và anh Phan Đình Thông 500m2. Vậy tôi làm giấy này báo cho chị biết và đề nghị chi khi làm thủ tục tách thửa chị nên tách các thửa theo diện tích như trên để làm thủ tục chuyển nhượng QSD đất cho anh Bơ và anh Thông theo quy định của pháp luật.
Theo lời khai của bà Toàn và tài liệu đã thu thập, bà Toàn đã chuyển nhượng cho ông Thông diện tích 500m2 bằng hợp đồng công chứng số 27 ngày 17-01-2013 tại Văn phòng công chứng Bà Rịa. Ông Bơ thừa nhận đã nhận mua đất của ông Nga 700m2 thể hiện bằng hợp đồng đặt cọc ngày 01-3-2010 và giấy xác nhận của ông Bơ gửi cho Tòa án ngày 28-02-2020. Tuy nhiên, ông Bơ không đứng tên mà để cho con là Đào và cháu là Lộc đứng tên, theo đó bà Toàn đã chuyển nhượng sang trên trực tiếp cho bà Đào và ông Lộc. Còn diện tích 300m2 thì ông Chân, bà Lý, bà Chiến thừa nhận mua lại của ông Nga với giá 60 triệu đồng, khi giao tiền có ông Bơ chứng kiến và mỗi người mua 100m2 thể hiện tại “ đơn xác nhận” ngày 18-02-2020; bà Toàn đã lập hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất này cho ba người chung với 10 người khác trong tổng số diện tích 1.148,7m2 theo giấy chứng nhận QSD đất BN 644927 ngày 10-9-2013, nhưng ông Trần Công Nga không thừa nhận nội dung này. Như vậy, cấp sơ thẩm mới chỉ đưa ông Phan Văn Bơ là người mua đất vào tham gia tố tụng, còn những người khác thì chưa đưa họ vào tham gia tố tụng để làm rõ nội dung vụ án và bảo vệ quyền lợi của họ là vi phạm Điều 68 BLTTDS.
- Việc thu thập chứng cứ không đầy đủ.
+ Như đã nêu ở trên diện tích 300m2 thì ông Chân, bà Lý, bà Chiến thừa nhận mua lại của ông Nga với giá 60 triệu đồng, khi giao tiền có ông Bơ chứng kiến và mỗi người mua 100m2 thể hiện tại “ đơn xác nhận” ngày 18-02-2020 ; bà Toàn đã lập hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất này cho ba người chung với 10 người khác trong tổng số diện tích 1.148,7m2 theo giấy chứng nhận QSD đất BN 644927 ngày 10-9-2013, nhưng ông Trần Công Nga không thừa nhận nội dung này. Tại phiên tòa phúc thẩm không thể có mặt các đương sự để đối chất làm rõ được.
+ Sơ đồ vị trí đất lập ngày 11-09-2019, thông qua biên bản đo vẽ ngày 22-8-2019 thể hiện ông Nga là người chỉ ranh, bà Tòan không chỉ ranh. Trong khi diện tích đất 1500m2 đất theo yêu cầu của ông Nga, bà Toàn đã chuyển nhượng cho ông Thông 500m2; chuyển nhượng cho ông Bơ (Đào và ông Lộc), diện tích còn lại 300m2 thì chuyển nhượng cho ông Chân, bà Lý, bà Chiến. Do đó cần phải làm rõ trong diện tích 1500m2 thì phần nào bà Toàn chuyển nhượng cho ông Thông (ông Thông đã chuyển nhượng lại cho bà Toàn), phần nào chuyển nhượng cho ông Bơ và phần nào chuyển nhượng cho những người khác. Tại phiên tòa phúc thẩm bà Toàn không đồng ý với sơ đồ đo vẽ lập ngày 11-9-2019 vì không đúng với vị trí đất mà bà Toàn đồng ý chuyển nhượng cho ông Nga mà là vị trí khác, bà Toàn yêu cầu đo vẽ lại.
Những vi phạm thiếu sót trên của cấp sơ thẩm là nghiêm trọng, không thể bổ sung tại phiên tòa phúc thẩm, nên cấp phúc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm để giài quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
- Ngoài ra theo đơn khởi kiện của ông Trần Công Nga yêu cầu bà Toàn trả lại 150.000.000 đồng, tại phiên tòa sơ thẩm ông Nga rút nội dung yêu cầu này. Nhưng bản án sơ thẩm không đình chỉ đối với nội dung phần ông Nga rút yêu cầu là vi phạm Điều 244 BLTTDS.
Qua kết quả xét xử phúc thẩm, Phòng 9 - VKSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thông báo đến Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố nghiên cứu rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm sát và kháng nghị phúc thẩm giải quyết các vụ, việc dân sự.
Bài viết: Vũ Thị Hồng Hạnh - Phòng 9