Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hành chính, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu thấy cần thông báo đến Viện Kiểm sát nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để rút kinh nghiệm đối với 02 vụ án Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết có vi phạm nghiêm trọng như sau:
I. Vụ thứ nhất: “Khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai” giữa người khởi kiện là ông Lê Minh Tiến và người bị kiện là Chủ tịch UBND TP. Vũng Tàu.
1. Nội dung vụ án:
Năm 2005, ông Lê Minh Tiến, bà Trương Thị Nguyệt Lãng và ông Nguyễn Đăng Đỗng cùng góp vốn để nhận chuyển nhượng 18.480 m2 đất tại số 21, tổ 10 (cũ) đường Nguyễn Gia Thiều thuộc thửa số 105 (số cũ 91+97), tờ bản đồ số 58 (số cũ 32), phường 11 (nay là phường 12) thành phố Vũng Tàu từ bà Trần Thị Kim Xuân, thống nhất để ông Tiến đứng tên. Nguồn gốc lô đất do bà Xuân nhận chuyển nhượng từ bố là ông Trần Văn Bổng. Ngày 28/7/2010, ông Tiến có đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Ngày 24/01/2014 Chủ tịch UBND TP Vũng Tàu ban hành quyết định số 280/QĐ-UBND với nội dung bác đơn đề nghị của ông Tiến với lý do: Hợp đồng chuyển nhượng lập vào thời điểm bà Xuân đã xuất cảnh, chưa có thông tin về việc nhập cảnh vào Việt Nam; thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà Xuân chưa được cấp GCNQSDĐ hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất mà Điều 50 Luật đất đai 2003 quy định, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Xuân và ông Tiến chưa được công chứng, chứng thực đúng quy định và toàn bộ diện tích đất ông Tiến đề nghị cấp GCNQSDĐ thuộc quỹ đất Nhà nước quản lý.
Ông Tiến không đồng ý nên khởi kiện quyết định số 280/QĐ-UBND ngày 24/01/2014 của Chủ tịch UBND thành phố Vũng Tàu, yêu cầu Tòa án tuyên hủy quyết định này, buộc Chủ tịch UBND thành phố Vũng Tàu thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ với diện tích 18.480 m2 cho ông Tiến.
Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân Tp Vũng Tàu quyết định:
- Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lê Minh Tiến
- Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Lê Minh Tiến phải chịu 200.000 đồng…
Ngày 21/01/2020, Ông Lê Minh Tiến có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân Tp Vũng Tàu.
Ngày 10/02/2020, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Quyết định kháng nghị số 111/QĐKNPT-VKS-HC đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Tiến: Hủy quyết định hành chính số 280/QĐ-UBND ngày 24/01/2014 của Chủ tịch UBND TP Vũng Tàu; buộc UBND TP Vũng Tàu tiếp nhận, giải quyết hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của ông Tiến đối với phần diện tích được xác định đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ, ông Tiến không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Tại phiên tòa Phúc thẩm ngày 15/6/2020, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BR-VT.
2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
- Tại quyết định số 280/QĐ-UBND ngày 24/01/2014, Chủ tịch UBND TP Vũng Tàu căn cứ vào các phiếu kiểm kê tài sản, hợp đồng thuê nhà, biên bản về việc xác định diện tích nhà và bản kiểm kê nhà cửa để cho rằng toàn bộ diện tích đất 18.480 m2 đã được nhà nước thiết lập hồ sơ quản lý. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có “Bản kiểm kê nhà cửa ngày 01/7/1983” là tài liệu thể hiện diện tích khuôn viên của căn nhà mà ông Bổng thuê của Nhà nước là 10.000 m2, không có tài liệu nào thể hiện toàn bộ diện tích 18.480 m2 thuộc quỹ đất Nhà nước quản lý. Mặt khác, tại sổ mục kê năm 1993 của phường 11, Tp Vũng Tàu, ông Bổng đăng ký sử dụng 3 thửa đất số 91 (diện tích 17.227 m2), thửa số 97 (diện tích 657 m2) và thửa số 572 (diện tích 304 m2) tờ bản đồ số 32. Tổng diện tích 3 thửa là 18.180 m2. Năm 1995, ông Bổng chuyển nhượng 18.480 m2 đất cho bà Xuân, được UBND phường 11, TP Vũng Tàu xác nhận vào ngày 15/6/1995 với nội dung đất thuộc các thửa 91, 97, 572 tờ bản đồ số 32 nguồn gốc do gia đình ông Bổng khai phá, sử dụng trồng cây ăn trái từ 1975 đến thời điểm chuyển nhượng.
Từ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như nêu trên, thấy rằng trong tổng diện tích khu đất ông Bổng đăng ký sử dụng, sau đó chuyển nhượng cho bà Xuân là 18.480 m2, trong đó có 10.000 m2 đất thuộc quỹ đất do Nhà nước quản lý cho thuê và 8.480 m2 do gia đình ông Bổng khai phá, sử dụng trồng cây ăn trái từ 1975 cho đến thời điểm chuyển nhượng lại cho bà Xuân, không tranh chấp với các hộ dân khác; phần đất khai phá này đủ điều kiện cấp giấy CNQSDĐ theo quy định của pháp luật hiện hành. Người bị kiện cho rằng toàn bộ diện tích 18.480 m2 đất mà ông Tiến đang yêu cầu cấp giấy đều là do nhà nước quản lý nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh. Do đó, Tòa án nhân dân TP Vũng Tàu bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là không có căn cứ.
- Về án phí: Ông Tiến sinh năm 1935, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 48 nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016, thì ông Tiến thuộc trường hợp được miễn án phí, bản án tuyên buộc ông Tiến phải chịu án phí hành chính sơ thẩm 200.000 đồng là không đúng quy định.
- Ngoài ra, người khởi kiện yêu cầu cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa UBND thành phố Vũng Tàu là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy CNQSD đất vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân TP Vũng Tàu đã phát hiện vi phạm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm và báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị phúc thẩm, đồng thời đã có sự phối hợp tốt với Phòng 10 VKS tỉnh trong việc cung cấp các tài liệu, chứng cứ để việc kháng nghị được kịp thời, có chất lượng.
II. Vụ thứ hai: “Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại” giữa người khởi kiện là ông Trần Văn Bình và người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Sơn Bình, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
1. Nội dung vụ án
Ông Trần Văn Bình là nguyên đơn trong vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do Tòa án nhân dân huyện Châu Đức thụ lý số 31/2006/TLST-DS ngày 12/12/2006. Sau đó, vụ án này được Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 16/01/2018, TAND tỉnh BR-VT ban hành Quyết định số 01/2018/CCTLCC yêu cầu UBND xã Sơn Bình cung cấp các hợp đồng số 32/11 ngày 11/10/1999 về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Tùng và ông Trần Văn Hùng; hợp đồng số 29/9 ngày 06/8/2003 về việc chuyển nhượng QSD đất giữa ông Trần Văn Tùng và ông Trần Văn Sơn và hợp đồng số 28/9 ngày 06/8/2003 về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Tùng và ông Trần Văn Thành.
Ngày 18/01/2018, UBND xã Sơn Bình có Công văn số 27/CV-UBND thông báo cho Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT biết việc UBND xã không lưu giữ 03 hợp đồng nêu trên. Ông Trần Văn Bình có đơn đơn khiếu nại đối với Công văn số 27/CV-UBND của UBND xã Sơn Bình, huyện Châu Đức.
Ngày 22/5/2018, Chủ tịch UBND xã Sơn Bình ban hành Công văn số 292/CV-UBND về việc trả lời đơn khiếu nại cho ông Bình.
Không đồng ý, ông Bình làm đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Châu Đức yêu cầu: hủy Công văn số 292/CV-UBND ngày 22/5/2019 của chủ tịch UBND xã Sơn Bình;
Tại bản án sơ thẩm số 02/2019/HC-ST ngày 20/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Bình về việc yêu cầu hủy Công văn số 292/CV.UB ngày 22/5/2018 của Chủ tịch UBND xã Sơn Bình về việc trả lời đơn khiếu nại của ông Trần Văn Bình. Ngoài ra, Bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 02/01/2020, ông Trần Văn Bình có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy Bản án sơ thẩm số 02/HC-ST ngày 20/12/2019; hủy Công văn số: 292/CV-UBND ngày 22/5/2018 của UBND xã Sơn Bình.
Tại bản án phúc thẩm số 01/2020/HC-PT ngày 28/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT tuyên xử: không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn Bình. Hủy bản án hành chính sơ thẩm số 02/2019/HC-ST ngày 20/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức và đình chỉ giải quyết vụ án (do thụ lý, giải quyết không đúng đối tượng).
2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
- Công văn số 27/CV-UBND của UBND xã Sơn Bình, có nội dung trả lời Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của Tòa án, không phải là quyết định hành chính theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính.
- Do vậy, Công văn số 292/CV-UBND cũng không phải là quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện của ông Bình đối với Công văn 292/CV-UBND là không đúng đối tượng.
Từ hai vụ án trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông báo đến các Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh nghiên cứu rút kinh nghiệm chung để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính trong thời gian tới.
Bài viết: Lương Yến – VKSND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu