Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án của Tòa án, ngày 14/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án dân sự số 25/2019/DS-ST ngày 30/9/2019 của Toà án nhân dân thị xã Phú Mỹ, do có vi phạm về tố tụng và nội dung.
Nội dung vụ án:
Tháng 10/2016, ông Bùi Văn Phước, bà Phạm Thị Lan và ông Nguyễn Xuân Tốn có thỏa thuận với nhau về việc hợp tác làm phân hữu cơ sinh học. Theo nội dung thỏa thuận thì bà Lan có nghĩa vụ cung cấp chi phí để nhập nguyên vật liệu, ông Tốn cung cấp máy móc và ông Phước chịu trách nhiệm tiêu thụ thành phẩm. Địa điểm sản xuất tại huyện Tân Thành (nay là tx Phú Mỹ).
Tháng 12/2016, phân hữu cơ sinh sinh học bắt đầu được sản xuất thi điểm, nhưng đến ngày 06/01/2017, bà Lan ngừng cung cấp vốn, vì chi phí để sản xuất quá lớn nên việc sản xuất phân bón cũng ngừng thực hiện.
Tháng 04/2017, bà Phạm Thị Lan biết được ông Bùi Văn Phước liên kết với ông Nguyễn Cửu Lộc để tiếp tục sản xuất phân bón hữu cơ sinh học dựa trên các nguyên vật liệu và máy móc có sẵn từ thời gian làm chung với ông Tốn và bà Lan. Do đó, bà Lan yêu cầu ông Phước phải thanh toán số tiền 360.000.000 đồng là chi phí bà Lan đã đầu tư trước đó và được ông Phước đồng ý với điều kiện bà Lan phải để ông Phước toàn quyền bán số phân bón đã sản xuất cũng như các nguyên vật liệu đã nhập về.
Ngày 07/5/2017, ông Phước đã viết giấy ghi nợ bà Lan số tiền 360.000.000 đồng và cam kết sẽ thanh toán số tiền trên cho bà Lan, nhưng do ông Phước và bà Lan có nợ chung với bà Đỗ Thị Mỹ Phương nên sau khi cấn trừ thì số tiền nợ chung, ông Phước còn nợ bà Lan 245.000.000 đồng.
Ngày 14/9/2017, ông Phước và bà Lan thỏa thuận hủy giấy nợ đã viết ngày 07/5/2019 và làm lại giấy nợ khác chia thành 02 bản: 01 bản là ghi nhận số tiền ông Phước nợ bà Lan 45.000.000 đồng hẹn ngày 20/9/2017 sẽ trả tiền và 01 bản ghi nợ số tiền 200.000.000 đồng, ông Phước xin trả mỗi tháng 40.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Sau đó, ông Phước đã thanh toán xong khoản nợ 45.000.000 đồng. Khoản nợ còn lại là 200.000.000 đồng, dù bà Lan đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng ông Phước vẫn chưa trả cho bà Lan nên bà Lan làm đơn khởi kiện yêu cầu ông Phước thanh toán số tiền 200.000.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Phước đã trả thêm cho bà Lan số tiền 50.000.000 đồng, nên tại phiên tòa sơ thẩm bà Lan chỉ yêu ông Phước trả số tiền còn lại là 150.000.000 đồng. Ông Phước thừa nhận thừa nhận còn nợ số tiền như bà Lan đã trình bày, nhưng đề nghị buộc ông Nguyễn Xuân Tốn và ông Nguyễn Cửu Lộc cùng chịu trách nhiệm thanh toán nợ cho bà Lan.
Tại Bản án dân sự số: 25/2019/DS-ST ngày 30/9/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tuyên xử: Tuyên bố hợp đồng hợp tác sản xuất phân bón giữa nguyên đơn bà Phạm Thị Lan và ông Bùi Văn Phước vô hiệu. Buộc vợ chồng ông Bùi Văn Phước, bà Lê Thanh Huệ có nghĩa vụ phải thanh toán hoàn trả cho bà Lan số tiền 150.000.000 đồng.
Sau khi thực hiện công tác kiểm sát bản án nêu trên của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ đã phát hiện có một số vi phạm nên đã ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, cụ thể:
1. Về tố tụng:
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị Lan không có yêu cầu xem xét về tính hợp pháp của hợp đồng hợp tác đầu tư với ông Nguyễn Văn Tốn và Bùi Văn Phước, mà chỉ yêu cầu bị đơn là ông Bùi Văn Phước phải thanh toán khoản nợ đã nhận là 150.000.000 đồng, nhưng Tòa án thị xã Phú Mỹ lại xác định mối quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư” là không đúng, dẫn đến xác định sai tư cách tham gia tố tụng của một số cá nhân như ông Nguyễn văn Tốn, ông Nguyễn Cửu Lộc. Theo quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ thì đây là quan hệ tranh chấp “Đòi lại tài sản” được quy định tại khoản 2, Điều 26, Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Về nội dung vụ án:
Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ nhận thấy Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ tuyên bố hợp đồng hợp tác sản xuất phân bón giữa nguyên đơn bà Phạm Thị Lan và ông Bùi Văn Phước vô hiệu là chưa đúng pháp luật, vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự. vì đây là hợp đồng hợp tác ba bên gồm bà Lan, ông Phước và ông Tốn; hợp đồng hợp tác đã được các bên tự ý ngừng và giải quyết bằng các giấy nhận nợ và cam kết thanh toán giữa ông Phước, bà Lan.
Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Lan và ông Phước đều xác định việc xác lập hợp đồng hợp tác chỉ có bà Lan, ông Phước và ông Tốn, nhưng trong quá trình làm việc có phát sinh mâu thuẫn nên ông Tốn không tham gia nữa và bà Lan cũng rút khỏi hợp đồng. Thời điểm bà Lan không tham gia nữa thì hoạt động sản xuất chỉ dừng ở mức sản xuất thí điểm, có ít phân thành phẩm do thiếu nguyên liệu, chưa thu được lợi nhuận gì. Tại phiên tòa ông Phước cho biết bà Lê Thanh Huệ (vợ ông Phước) không biết việc ông hợp tác đầu tư làm ăn với bà Lan. Ông Phước cũng không dùng tài sản gì của gia đình để đầu tư vì ông chỉ chịu trách nhiệm tiêu thụ sản phẩm đã được sản xuất ra và sản phẩm thực tế chưa tiêu thụ được. Hồ sơ vụ án không có lời khai của bà Huệ và bà Lan cũng không có yêu cầu bà Huệ phải liên đới cùng ông Phước trả số tiền 150.000.000 đồng cho bà Lan, nhưng Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ lại buộc bà Huệ phải có trách nhiệm liên đới cùng ông Phước trả cho bà Lan 150.000.000 đồng là không có căn cứ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Huệ.
Bài viết: Ma Quang Lâm -Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ.