Qua thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án dân sự, án hành chính, có một số vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật liên quan đến công tác này, làm cho việc thi hành án gặp khó khăn, như:
Việc xử lý, bán đấu giá tài sản kê biên là quyền sử dụng đất của người phải thi hành án chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại khoản 2, Điều 110 Luật Thi hành án dân sự quy định:
“Quyền sử dụng đất được kê biên, bán đấu giá để thi hành án
1. …
2. Người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó”.
Theo quy định nêu trên, Cơ quan Thi hành án dân sự được quyền kê biên quyền sử dụng đất đối với người phải thi hành án chưa được cấp Giấy CNQSDĐ nhưng thuộc trường hợp được cấp Giấy CNQSDĐ đất theo quy định của pháp luật về đất đai như hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong những loại giấy tờ: Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993; Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất; các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định của Chính phủ... (Điều 100, 101, 102 Luật Đất đai năm 2013). Tuy nhiên, sau khi kê biên thì lại không thể bán đấu giá để thi hành án được. Bởi vì:
Theo quy định của Luật đấu giá tài sản (Điều 46) thì Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự, có nghĩa là đối với trường hợp người phải thi hành án bị Cơ quan Thi hành án kê biên đất, tài sản gắn liền với đất chưa được cấp giấy CNQSDĐ thuộc diện được cấp Giấy chứng nhận, khi thực hiện việc bán đấu giá, người mua trúng đấu giá phải làm thủ tục theo quy định của pháp luật về đất đai là phải công chứng khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng (khoản 3, Điều 167 Luật đất đai 2013). Mà tại điểm d, khoản 1, Điều 40 Luật Công chứng năm 2014 quy định về hồ sơ yêu cầu Công chứng gồm: “Bản sao chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó”. Như vậy, khi chưa có giấy CNQSDĐ (giấy chứng nhận quyền sở hữu), thì việc công chứng hồ sơ mua bán tài sản đấu giá là quyền sử dụng đất sẽ không thực hiện được, nên việc xử lý tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp này cũng sẽ không thể thực hiện được.
Về vấn đề này, tôi đề xuất giải pháp như sau:
Cần quy định rõ việc Cơ quan thi hành án kê biên tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người phải thi hành án trong trường hợp chưa được cấp giấy CNQSDĐ, quá trình xử lý, bán đấu giá tài sản kê biên, khi Cơ quan thi hành án yêu cầu Công chứng, chứng thực thì cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm Công chứng, chứng thực các tài liệu chứng minh quyền sử dụng đất.
Bài viết: Nguyễn Minh Khuê - VKSND Huyện Đất Đỏ