Ngày 28/8/2018, Tòa án nhân dân Tp.Vũng Tàu mở phiên tòa tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất": giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H, ông Trần Tiến Đ, bà Võ Thị Khánh V và ông Đinh Chí Đ cùng cư trú tại Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với bị đơn là ông Trần Văn T và bà Trần Thị P cùng cư trú tại huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Nội dung vụ án: Thửa đất số 62, tờ bản đồ 37 tọa lạc tại An Phước, phường 11, Tp.Vũng Tàu có nguồn gốc là của ông K khai phá từ trước năm 1975, đến năm 1989 ông K ủy quyền cho cháu là ông Trần Văn T sử dụng ổn định, đến năm 1996 thì vợ chồng ông K chuyển nhượng cho vợ chồng ông T có xác nhận của UBND phường 11 và UBND Tp.Vũng Tàu. Từ năm 2001 đến năm 2004 vợ chồng ông Trần Văn T và bà Trần Thị P đã chuyển nhượng 2.500m2 đất thuộc thửa 62, tờ bản đồ 37 cho vợ chồng bà Nguyễn Thị H và vợ chồng bà Võ Thị Khánh V (vợ chồng bà V và vợ chồng bà H mua chung, sau này hai bên cùng thỏa thuận để vợ chồng bà H đứng tên). Năm 2002, vợ chồng ông T, bà P chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hữu B diện tích 2.400m2 đất thuộc thửa 62, tờ bản đồ 37 (sau hai bên thống nhất diện tích đất chuyển nhượng còn lại là 2.000m2). Năm 2003, UBND TP.Vũng Tàu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất trên cho “Hộ ông Trần Văn T”. Năm 2004, do không làm thủ tục tách thửa được nên ông B chuyển nhượng 2.000m2 trên cho vợ chồng bà H và giao toàn bộ giấy tờ đất liên quan đến diện tích thửa đất 62, tờ bản đồ số 37 cho vợ chồng bà H, khi chuyển nhượng và bàn giao giấy tờ, ông B có thông báo cho vợ chồng ông T biết nhưng không có ý kiến gì. Sau đó, bà H đã tiến hành tách thửa 62 thành 47 thửa. Hiện nay có 16 thửa đã bị nhà nước thu hồi để xây dựng trường học, số thửa còn lại vợ chồng bà H đã chuyển nhượng hết cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nhiều lần, vợ chồng bà H yêu cầu vợ chồng ông T ký các giấy tờ để làm thủ tục sang tên nhưng vợ chồng ông T không chịu ký nên vợ chồng bà H và vợ chồng bà V đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông T, bà P với vợ chồng bà H, vợ chồng bà V và Hợp đồng giữa vợ chồng bà H với ông B; Công nhận diện tích đất mà các ông, bà đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông T, bà P và của ông B.
Phía bị đơn là ông T, bà P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các con của ông T, bà P (có yêu cầu độc lập) không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu Tòa án tuyên bố tất cả các hợp đồng chuyển nhượng với vợ chồng bà H, vợ chồng bà V và ông B vô hiệu toàn bộ; Hủy toàn bộ các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ ông Trần Văn T đã được tách thành 47 thửa; Yêu cầu bà H, bà V, ông B trả lại toàn bộ diện tích 4.293m2 đất cùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W777100 do UBND TP.Vũng Tàu cấp ngày 04/8/2003 cho ông T và bà P. Gia đình ông, bà sẽ trả lại vàng cho các bên như đã nhận.
Sau khi xem xét toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa và các căn cứ pháp luật. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn; Không chấp nhận yêu cầu độc lập của các con ông T, bà P; Chấp nhận yêu cầu độc lập của những người đã nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng bà H.
Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử tuyên bố kéo dài thời gian nghị án, dự kiến tuyên án vào lúc 08 giờ ngày 31/8/2018.
Vụ án trên được thụ lý từ năm 2009, trải qua nhiều lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm hủy án để xét xử sơ thẩm lại từ đầu. Nội dung vụ án phức tạp, có rất nhiều yêu cầu và liên quan đến nhiều người. Trong vụ án này, việc mua bán diễn ra kéo dài từ năm 2001 đến năm 2004 thì bên mua đã giao đủ tiền cho bên bán và nhận nhà, đất để quản lý và sử dụng, việc mua bán, giao nhận tiền cũng được các bên lập giấy xác nhận nhiều lần. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp thì phía bị đơn và các con cho rằng thửa đất trên là của hộ gia đình, có công sức đóng góp của các con nhưng ông T tự ý bán mà không được sự đồng ý của bà P và các con nên không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, khi được yêu cầu đưa ra chứng cứ chứng minh về công sức đóng góp thì các con của bị đơn không cung cấp được chứng cứ, còn theo kết quả xác minh của UBND TP.Vũng Tàu thì thửa đất trên cấp cho “Hộ ông Trần Văn T” được hiểu là của vợ chồng ông T, bà P. Như vậy, ông T và bà P có toàn quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không cần phải được sự đồng ý của các con trong gia đình. Việc phía bị đơn và các con cho rằng bà P và các con không biết việc ông T tự ý chuyển nhượng cũng không đúng, vì: ngày 01/8/2004, chính bà P cùng với ông T ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho vợ chồng bà H; Ngày 11/12/2008 ông T cùng bà P ký Giấy ủy quyền cho ông B được quyền định đoạt đối với 2.000m2 mà ông B đã mua của ông T, bà P; Ngày 20/9/2004 ông T cùng bà P lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 2000m2 đất cho ông D (con ông T, bà P) mục đích để ông D làm thủ tục tách thửa rồi hoàn tất thủ tục sang tên cho ông B, nhưng sau đó ông D cũng không làm thủ tục tách thửa được. Ngày 01/8/2004, ông T và con trai là ông D ký giấy biên nhận nhận nốt số tiền mua đất của vợ chồng bà H….Như vậy, việc ông T chuyển nhượng đất cho vợ chồng bà H, vợ chồng bà V, ông B là có sự đồng thuận của bà P và con trai là ông D chứ không phải ông T tự ý chuyển nhượng như trình bày của ông T, bà P và các con của ông T, bà P. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của ông T, bà P và các con của ông T, bà P.
Tin bài: Nguyễn Thị Ngần - VKSND TP.Vũng Tàu