Được biết từ đầu năm 2017 Văn phòng Chính phủ có công văn số 30/VPCP ngày 04/01/2017, theo đó thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, quản lý biên chế công chức viên chức, làm rõ trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong việc ký kết hợp đồng lao động không đúng quy định trong thời gian qua. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ nội vụ UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành công văn số 3502/UBND-SNV ngày 26/4/2017 chỉ đạo “Kể từ nay, tất cả các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh không được phép ký hợp đồng lao động để làm công tác chuyên môn nghiệp vụ thuộc chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức khi chưa có chủ trương đồng ý của Chủ tịch UBND tỉnh” và “Chậm nhất đến ngày 01/7/2017, Thủ trưởng các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập chịu trách nhiệm thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động đối với các trường hợp đang làm hợp đồng tại các cơ quan, đơn vị không đúng với chỉ đạo của UBND tỉnh tại công văn này”.
Để thực hiện ý kiến chỉ đạo trên một số cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh nói chung và Ban quản lý khu lịch huyện Long Điền (BQLKDL) nói riêng đã thực hiện đơn phương chấm dứt một số hợp đồng lao động thuộc các trường hợp theo chỉ đạo tại công văn nói trên. Tuy nhiên, về quy trình đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động Ban quản lý khu du lịch đã thực hiện không đúng chủ trương, trình tự theo quy định của Bộ luật lao động trên nên dẫn đến 04 nhân viên được phân công bãi giữ xe đã khởi kiện chủ sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Cụ thể: Ông Trần Đình Nghĩa, Nguyễn Tấn Được, Trần Văn Qui, Lê Hoàng Thành theo hợp đồng lao động ký hàng năm tính đến thời điểm chấm dứt lao động thì người có thâm niên ít nhất là 3 năm 7 tháng và cao nhất là 8 năm 4 tháng, nội dung hợp đồng lao động phù hợp với quy định của pháp luật. Theo thời hạn của hợp đồng ký gần nhất thì tất cả 4 hợp đồng đều ký bắt đầu từ ngày 01/01/2016 và thời hạn kết thúc hợp đồng là ngày 31/12/2016 được hiểu là hợp đồng xác định có thời hạn. Hợp đồng lao động hai bên ký kết thể hiện việc chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật. Như vậy, kể từ khi hết thời hạn hợp đồng chủ sử dụng lao động không ký lại hợp đồng và cũng không thông báo chấm dứt hợp đồng khi hết thời hạn, người lao động vẫn tiến hành làm việc bình thường thì theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật lao động quy định “Khi hợp đồng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng không xác định thời hạn...”.
Về nội dung Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động căn cứ vào Công văn số 3502/UBND-SNV ngày 26/4/2017, Công văn số 2042/UBND – VP ngày 04/5/2017 và Công văn số 2836/UBND-NV ngày 12/6/2017 của chủ sử dụng lao động là dựa vào chính sách, cơ chế do Nhà nước quy định để chấm dứt hợp đồng lao động. Việc chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn của chủ sử dụng lao động là theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 38 Luật lao động “Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chổ làm việc”.
Tuy nhiên, về trình tự chấm dứt lao động của BQLKDL có các vi phạm: Về thời hạn thông báo chấm dứt hợp đồng lao động; Theo cuộc họp ngày 16/5/2017 nội dung thể hiện đã triển khai công văn, quy định của cơ quan Nhà nước về các chủ trương chấm dứt hợp đồng lao động làm chuyên môn nghiệp vụ tại các cơ quan đơn vị đến toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động được biết là kể từ ngày 01/7/2017, 05 hợp đồng tại BQLKDL sẽ chấm dứt hợp đồng lao động theo cơ chế chính sách của UBND huyện quy định. Tuy nhiên, trong biên bản cuộc họp đã ghi vắng 02 mà không ghi cụ thể là vắng ai, tại phiên tòa ngày 09/7/2018 người lao động cho rằng không tham dự cuộc họp này và chủ sử dụng cũng không cung cấp được bất kỳ chứng cứ nào chứng minh (chủ sử dụng lao động đề nghị hoãn phiên tòa để cung cấp chứng cứ). Tiếp tục phiên tòa ngày 23/7/2018 nguyên đơn cung cấp 2 cuốn sổ ghi chép do ông Nguyễn Tấn Thẩm nguyên là trưởng phòng tổ chức hành chính trực tiếp quản lý các nhân viên của bãi giữ xe thể hiện: phân công ca trực ngày 16/5/2017 ông Nghĩa ông Quy trực còn ông Thành và ông Được ra ca về nghỉ. Phía BQLKDL cũng thừa nhận ông Thẩm phụ trách quản lý các nhân viên bãi giữ xe và phụ trách an ninh trật tự trong khu vực. Như vậy, chủ sử dụng lao động đã không chứng minh được về việc đã thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với 04 nhân viên của bãi giữ xe nên đã vi phạm về thời hạn thông báo trước 45 ngày theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 38 Luật lao động.
Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 01/7/2017 nhưng chủ sử dụng lao động trao Quyết định ngày 07/9/2017. Như vậy, kể từ 01/7/2017 ông Nghĩa, Thành, Được, Qui vẫn tiếp tục làm việc đến ngày 27/9/2017 mà không thỏa thuận ký hợp đồng là chủ sử dụng lao động vi phạm về nghĩa vụ giao kết hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật lao động, trong tháng 8 và tháng 9 chưa trả lương cho người lao động.
Ngày 23/7/2018 Tòa án nhân dân huyện Long Điền đã đưa vụ án ra xét xử và tuyên: Không chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc yêu cầu 02 tháng 7 ngày tiền lương (từ tháng 7 đến 07/9/2017), tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền trang phục, tiền lương 45 ngày do vi phạm thời hạn thông báo trước, tiền lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ.
Sau khi nghiên cứu Bản án và các quy định của pháp luật Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền đã kháng nghị Bản án lao động do có vi phạm về nội dung và tố tụng. Đề nghị cấp phúc thẩm sửa án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật theo Điều 41 Bộ luật lao động và giải quyết hậu quả theo Điều 42 Bộ luật lao động. Do người lao động không có nhu cầu trở lại làm việc nên chủ sử dụng lao động“Phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc, cộng với ít nhất 02 tháng lương theo hợp đồng lao động”và các chế độ khác theo quy định trong hợp đồng lao động cộng với lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ.
Thiết nghĩ, chủ trương đã rõ nhưng do trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đã vi phạm về trình tự khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động dẫn đến phải đối mặt với hậu quả khôn lường. Dự kiến, nếu cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn thì tiền bồi thường của 4 nguyên đơn lên đến hơn 100 triệu đồng, ai sẽ là người chịu trách nhiệm trong việc chi trả tiền bồi thường này, việc tưởng chừng như đơn giản nhưng hậu quả đáng lo ngại./.
Người viết bài: Mai Thị Thiên Lộc - VKSND huyện Long Điền