Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hành chính về “Khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai”, giữa người khởi kiện ông Phan Văn Ngời và người bị kiện Chủ tịch UBND huyện Tân Thành - UBND huyện Tân Thành. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thông báo để Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố biết tổ chức rút kinh nghiệm như sau:
1. Nội dung vụ án:
Ngày 30/9/2009, UBND huyện Tân Thành ban hành Quyết định số: 6942/QĐ-UBND, về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông Phan Văn Ngời để xây dựng công trình Khu công nghiệp Phú Mỹ 1, thị trấn Phú Mỹ đối với diện tích đất bị thu hồi là 58.963m2 với số tiền 1.334.850.637 đồng. Tuy nhiên, ông Ngời không đồng ý và có đơn khiếu nại.
Ngày 31/12/2013, UBND huyện Tân Thành tiếp tục ban hành Quyết định số: 7609/QĐ-UBND, về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho Ban Quản lý rừng phòng hộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thuộc dự án Khu công nghiệp Phú Mỹ 1 đối với diện tích 144.000m2 đất ông Phan Văn Ngời đang sử dụng.
Ngày 16/01/2014, ông Phan Văn Ngời có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án huyện Tân Thành giải quyết tuyên hủy Quyết định số: 6942/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 và Quyết định số: 7609/QĐ-UBND ngày 31/12/2013 của UBND huyện TânThành, về phê duyệt kinh phí bồi thường xây dựng công trình khu công nghiệp Phú Mỹ 1. Buộc UBND huyện Tân Thành bồi thường diện tích đất thu hồi là 229.146,7m2, tọa lạc tại các thửa số 10, 16, 17, 18, 19, 45, 54, 65, 101, tờ bản đồ số 6, thị trấn Phú Mỹ và bồi thường công trình, cây trồng trên đất.
Ngày 27/02/2014, Chủ tịch UBND huyện Tân Thành ban hành Quyết định số: 368/QĐ-UBND, giải quyết chấp nhận một phần đơn khiếu nại của ông Phan Văn Ngời và bồi thường bổ sung cho ông Ngời với với tiền 37.111.000 đồng. Những nội dung khác của Quyết định số: 6942/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 của UBND huyện Tân Thành được giữ nguyên.
Ngày 28/02/2017, ông Ngời có đơn khởi kiện bổ sung đối với Quyết định số: 368/QĐ-UBND ngày 27/02/2014 của Chủ tịch UBND huyện Tân Thành.
2. Kết quả giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm:
a) Kết quả giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm:
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 03/2017/HCST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành tuyên xử:
- Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn Ngời, về hủy Quyết định số: 6942/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 và Quyết định số: 7609/QĐ-UBND ngày 31/12/2013 của UBND huyện TânThành; Quyết định số: 368/QĐ-UBND ngày 27/02/2014 của Chủ tịch UBND huyện Tân Thành.
Ngày 29/9/2017, ông Phan Văn Ngời có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết hủy Bản án hành chính sơ thẩm số: 03/2017/HCST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành.
b) Kết quả giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm:
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 09/4/2018, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu đã phát biểu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số: 03/2017/HCST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và nội dung, đồng thời chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo quy định pháp luật. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã được Hội đống xét xử Tòa án cấp phúc thẩm chấm nhận.
3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong vụ án:
a) Về tố tụng:
Qua xem xét hồ sơ vụ án nhận thấy Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án này gồm có ông Nguyễn Ngọc Ân và bà Vũ Thị Phượng, trong đó bà Phượng nguyên là Chánh Thanh tra huyện Tân Thành. Bà Phượng trước đây có tham gia vào giải quyết đơn khiếu nại của ông Phan Văn Ngời đối với Quyết định số: 6942/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 của UBND huyện Tân Thành (thể hiện tại Biên bản làm việc ngày 09/11/2009 giữa người giải quyết khiếu nại là bà Vũ Thị Phượng và đại diện theo ủy quyền của ông Phan Văn Ngời là ông Đặng Văn Quyện). Đây cũng là Quyết định hành chính mà ông Ngời đang khởi kiện.
Theo khoản 4, Điều 45, Luật tố tụng hành chính quy định những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng: Người đã tham gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính bị khởi kiện. Như vậy, theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này bà Vũ Thị Phượng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc Tòa án nhân dân huyện Tân Thành phải thay đổi bà Phượng bằng một Hội thẩm nhân dân khác; việc bà Vũ Thị Phượng tham gia Hội đồng xét xử vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Ngoài ra, theo đơn khởi kiện thì ông Phan Văn Ngời khởi kiện cả quyết định do Chủ tịch UBND huyện Tân Thành và quyết định do UBND huyện Tân Thành ban hành, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Chủ tịch UBND huyện Tân Thành tham gia tố tụng với tư cách người bị kiện là thiếu sót, chưa đầy đủ, vi phạm khoản 7, khoản 9, Điều 3 và Điều 53, Luật tố tụng hành chính.
b) Về nội dung:
Căn cứ đơn khởi kiện thì ông Phan Văn Ngời yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định số: 6942/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 và Quyết định số: 7609/QĐ-UBND ngày 31/12/2013 của UBND huyện TânThành; Quyết định số: 368/QĐ-UBND ngày 27/02/2014 của Chủ tịch UBND huyện Tân Thành. Lý do là UBND huyện Tân Thành không bồi thường, hỗ trợ diện tích đất thu hồi xây dựng Khu công nghệp Phú Mỹ 1 là 229.146,7m2, tọa lạc tại các thửa số 10, 16, 17, 18, 19, 45, 54, 65, 101, tờ bản đồ số 6, thị trấn Phú Mỹ (09 thửa).
Theo trình bày của UBND huyện Tân Thành thì diện tích đất của ông Phan Văn Ngời bị thu hồi xây dựng Khu công nghiệp Phú Mỹ 1 là 202.963m2, bao gồm các thửa số 16, 17, 18, 19, 45, 65, tờ bản đồ số 6, thị trấn Phú Mỹ (6 thửa). Toàn bộ diện tích này đều nằm trong ranh giới rừng phòng hộ.
Theo đơn xác nhận ngày 01/6/2009 của Ban Quản lý rừng phòng hộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thì diện tích đất nằm trong rừng phòng hộ theo đơn của ông Phan Văn Ngời thể hiện: 14,4 ha nằm trong ranh giới rừng phòng hộ theo Quyết định số: 754/QĐ-UBT ngày 25/11/1992 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và 05,3 ha nằm trong ranh giới rừng phòng hộ theo Quyết định số: 2670/QĐ-UB ngày 11/02/2002 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tổng là 19,7ha tương đương 197.000m2 . Nhưng tại Công văn số: 403/BQL ngày 19/8/2013 của Ban Quản lý rừng phòng hộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lại xác nhận diện tích đất ông Phan Văn Ngời sử dụng nằm trong ranh giới rừng phòng hộ là 202.711,4m2.
Như vậy, việc xác định diện tích thu hồi của ông Ngời nằm trong ranh giới rừng phòng hộ giữa cơ quan quản lý rừng là Ban Quản lý rừng phòng hộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và cơ quan thu hồi, bồi thường đất UBND huyện Tân Thành là mâu thuẫn, chưa thống nhất, nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm làm rõ để giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, ông Ngời cho rằng số thửa đất bị thu hồi để xây dựng Khu công nghiệp Phú Mỹ I là 09 thửa (bao gồm thửa số 10, 16, 17, 18, 19, 45, 54, 65, 101), nhưng UBND huyện Tân Thành cho rằng diện tích đất ông Ngời sử dụng bị thu chỉ có 06 thửa (bao gồm thửa số 16, 17, 18, 19, 45, 65), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ 03 thửa còn lại là thửa số 10, 54, 101 để xem xét yêu cầu khởi kiện của ông Ngời theo đúng quy định của pháp luật; cụ thể 03 thửa đất này có phải do ông Ngời sử dụng không? nằm trong hay nằm ngoài ranh giới rừng phòng hộ và có bị thu hồi không? Nếu các thửa đất này ông Ngời không sử dụng thì do ai sử dụng? Tại Biên bản kiểm kê ngày 25/3/2009, ông Ngời cũng không đồng ý với diện tích đất thu hồi là 202.963m2 mà cho rằng diện tích đất thực tế thu hồi là 229.146,7m2 và yêu cầu cơ quan chức năng xác minh lại nhưng chưa thực hiện.
Những nội dung trên chưa được Tòa án cấp sơ thẩm làm rõ, nhưng lại bác yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn Ngời là chưa có cơ sở vững chắc, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Ngời. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Tin bài: Lê Vẹn - Phòng 10