27/10/14 11:59

Một số điểm mới về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật đất đai 2013


   Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014, đã mở rộng hơn thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân các cấp đối với quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất, cụ thể như sau:
    Theo Luật Đất đai 2003, tại Điều 136 quy định Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các giấy tờ quy định tại các khoản 1, khoản 2 và khoản 5 điều 50 của Luật Đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Đối với những tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không có các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân.
   Luật Đất đai 2013, quy định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai tại Điều 203.
Tại khoản 1 Điều 203 quy định “Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết”. Các giấy tờ quy định tại điều 100 Luật Đất đai 2013 cơ bản vẫn giữ nguyên quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 5 điều 50 Luật Đất đai 2003 và có sự bổ sung thêm một số trường hợp, gồm:
  1/ Những giấy tờ về quyền sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam;
  2/ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15/10/1993;
  3/ Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;
  4/ Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993 và được Ủy ban xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993;
  5/ Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;
  6/ Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;
  7/ Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định của Chính phủ;
  8/  Giấy tờ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành
  9/ Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này;
   Mục 7,8,9 là những điểm mới được quy định tại Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003.
  Tại khoản 2 điều 203 Luật Đất đai 2013 quy định: Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai, là nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
   Như vậy, thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai được quy định tại Luật Đất đai năm 2013 mở rộng hơn Luật Đất đai năm 2003, Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại việc tranh chấp đất đai gồm:
  - Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai;
  - Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất;
  - Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai;
    Trên đây là một số quy định mới về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của Luật Đất đai 2013. Do đó, kể từ ngày 01/7/2014, khi kiểm sát các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất do Tòa án thụ lý phải căn cứ Điều 100, 202, 203 Luật Đất đai và điều 88 Nghị định 43 ngày 15/5/2014 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai để xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân và kiểm tra đầy đủ các điều kiện “tiền tố tụng” để nâng cao công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất theo đúng các quy định của pháp luật.  

                                         
                        Phạm Thị Thanh Hoa - Phòng 5

Lên đầu trang