01/10/19 14:33

PHÒNG 9 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU PHỐI HỢP CÙNG TÒA ÁN TỔ CHỨC PHIÊN TÒA RÚT KINH NGHIỆM 2 CẤP

   Sáng ngày 25/9/2019 Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàuđã mở phiên tòa xét xử vụ ándân sự sơ thẩm: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”giữa:

   Nguyên đơn: Ông Hồ Văn Sáu,sinh năm 1955; địa chỉ: Tổ 11, ấp Phước Lộc,  phường  Tân Phước,  thị xã  Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

   Bị đơn: Ông Đỗ Đại Dược, sinh năm 1959 và bà Võ Thị Thúy Liễu, sinh năm: 1964. Cùng địa chỉ: Tổ 15B, ấp Ông Trịnh, phường Tân Phước, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

   Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân thị xã thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

   Người làm chứng: Công ty CP Phước Hòa Fico.

   Đây là phiên tòa rút kinh nghiệm 2 cấp của cả 2 cơ quan, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Phòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Kiểm sát viên Lê Văn Thiên tham gia phiên tòa).

   Về nội dung vụ án:

    Nguyên đơnkhởi kiện yêu cầu ông Đỗ Đại Dược và bà Võ Thúy Liễu trả lại diện tích đất 1.705m2 thuộc thửa 164, tờ bản đồ số 19 tại ấp Ông Trịnh, phường Tân Phước, thị xã Phú Mỹ. Theo nguyên đơn diện tích đất này là một phần trong tổng số diện tích đất mà ông đã mua của ông ông Nguyễn Nghi (đã chết) và bà Nguyễn Thị Vy vào năm 1980. Năm 1983 Xí nghiệp đá Phước Hòa thu hồi để làm đường nhưng không làm đường hết và ông Dược đã chiếm dụng nay ông yều cầu ông Dược trả lạivà yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Dược. Tuy nhiên ông Sáu không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh cho việc nhận chuyển nhượng diện tích đất này của ông Nghi cũng như việc sử dụng và có đăng ký với cơ quan nhà nước đối với diện tích đất này.

   Bị đơn trình bày: Diện tích mà ông Sáu đang tranh chấp nằm trong tổng diện tích 12.029m2đất có nguồn gốc một phần do ông Dược bà Liễu khai phá năm 1988-1989 và một phần (khoảng 1ha) do nhận chuyển nhượng của ông Lại Văn Lai (hiện không rõ địa chỉ). Đến khoảng tháng 6-1989 ông Dược bà Liễu thuê máy cày và trồng bạch đàn trên toàn bộ đất. Ông Sáu có qua và cho rằng ông Dược bà Liễu trồng cây lấn sang đất. Ông Sáu đề nghị ông Dược bà Liễu trả cho ông số tiền 40.000 đồng (tương đương 4.000 cây bạch đàn giống) để đổi lấy phần đất của ông Sáu. Vì nể ông Sáu là trưởng ấp và gia đình ông Dược bà Liễu là người nơi khác đến, không muốn phiền phức nên ông Dược bà Liễu đã trả cho ông Sáu số tiền 40.000đồng để được sử dụng phần đất (thỏa thuận này không lập giấy tờ gì, không có người làm chứng).

   Thửa đất trên ông Dược bà Liễu sử dụng ổn định từ tháng 3-1989 đến nay. Năm 1992 ông Dược bà Liễu cất 01 nhà nền xi măng, mái tôn, diện tích khoảng 80m2để ở và bán cà phê, sau đó  năm 2004 thì dỡ bỏ. Năm 2003 ông Dược bà Liễu được UBND huyện Tân Thành cấp giấy chứng nhận QSD đất số vào sổ 03305 QSDĐ/215/QĐ-UB ngày 27-01-2003 đối với diện tích 12.029m2 đất thửa 164 tờ bản đồ số 19 ấp Ông Trịnh, xã Phước Hòa (nay là phường Tân Phước, thị xã Phú Mỹ). Ông Dược bà Liễu sử dụng đất ổn định, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đầy đủ với nhà nước.Ông Dược bà Liễu không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn Sáu.
Nội dung đề xuất của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn, bị đơn cung cấp và Tòa án thu thập được phản ánh trong hồ sơ cho thấy nguyên đơn không cung cấp được bất kỳ một tài liệu nào để chứng minh cho việc sử dụng, kê khai diện tích đất này.Thời điểm năm 1986 đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước có quyết định giao đất cho xí nghiệp đá Phước Hòa và Xí nghiệp đá Phước Hòa đã đề bù hoa màu trên đất cho ông Sáu theo quy định, còn đất vẫn thuộc quyền quản lý, sử dụng của Nhà nước nên Nhà nước không ban hành quyết định thu hồi đất của ông Sáu. Trên thực tế thì từ năm 1986 đến nay ông Sáu không sử dụng diện tích đất này.

    Trong khi đó phía bị đơn ông Dược, bà Liễu là người sử dụng từ năm 1989, đã đăng ký, kê khai và được UBND huyện Tân Thành cấp giấy chứng nhận QSD đất. Như vậy hộ ông Dược, bà Liễu đã sử dụng đất liên tục, ổn định nên căn cứ Điều 46, 49 và Điều 50 Luật đất đai 2003 việc cấp giấy chứng nhận cho ông Dược, bà Liễu là đúng quy định nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Kiểm sát viên đề xuất không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa

   Những vấn đề yêu cầu Tòa án rút kinh nghiệm: Ngày 27/12/2016 TAND huyện Tân Thành ban hành Quyết định số 08/2016/QĐ-CVA chuyển vụ án đến TAND tỉnh BR-VT để giải quyết theo thẩm quyền. Đến ngày 03/3/2017 TAND tỉnh BR-VT mới có thông báo thụ lý vụ án số 30/TB-TLVA là chưa kịp thời.

   Ngày 31/8/2017 TAND tỉnh BR-VT ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án  dân sự số 45/2017/QĐST-DS. Đến ngày 11/3/2019 TAND tỉnh BR-VT có Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự số 01/2019/QĐST –DS. Tuy nhiên đến ngày 13/8/2019 Thẩm phán ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử là vi phạm thời hạn giải quyết vụ án quy định tại Điều 203 BLTTDS.

   Kết quả tuyên án: Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thống nhất quan điểm của Viện kiểm sát, bác toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn.

   Sau khi kết thúc phiên Tòa, Trưởng phòng 9 – Thái Quốc Bảo đã tổ chức họp rút kinh nghiệm với sự có mặt của các Kiểm sát viên tham dự phiên tòa. Với việc kết hợp cùng Tòa án tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm 2 cấp đã đảm bảo tiến độ hoàn thành chỉ tiêu phiên tòa rút kinh nghiệm 2 cấp theo kế hoạch năm công tác của phòng 9, qua đó các Kiểm sát viên được học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, thẳng thắn và mạnh dạn chỉ ra những mặt mạnh, thiếu sót cần bổ sung. 

 

         Tin bài: Vũ Nhung - phòng 9.

Lên đầu trang