15/05/19 14:15

QUYỀN ĐƯỢC YÊU CẦU MỞ LỐI ĐI TRÊN BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ

   Ngày 14/5/2019, Tòa án nhân dân Tp.Vũng Tàu mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp lối đi”, giữa nguyên đơn ông Bùi Ngọc T, sinh năm: 19.., địa chỉ:  Nguyễn Văn Trỗi, phường 4, Tp.Vũng Tàu với bị đơn ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 19.., địa chỉ: Ba Cu, phường 3, Tp.Vũng Tàu.

Toàn cảnh phiên tòa xét xử

   Về nội dung vụ án, nguyên đơn ông Bùi Ngọc Tuấn cho biết: Đầu năm 2017 ông có mua một mảnh đất của vợ chồng ông Trương Công Tâm, trên giấy tờ đất có thể hiện lối đi rộng 3m, dài 47m theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 897900 do UBND TP.Vũng Tàu cấp ngày 29/12/2006. Khi ông mua và sử dụng thì ông Nguyễn Văn Thi (là chủ bất động sản liền kề và cũng là người bán đất cho người chủ cũ của thửa đất mà ông Tuấn mua) đã tự ý xây dựng hàng rào và thay ổ khóa không cho gia đình ông đi và xây bít cổng ra vào nhà ông Tuấn. Ông Tuấn đã nhờ Công an và chính quyền xuống ngăn chặn, lập biên bản. Sau nhiều lần hòa giải nhưng ông Thi không đồng ý nên ông khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết buộc ông Thi phải trả lại lối đi công cộng và dỡ bỏ những vật kiến trúc xây dựng trái phép trên lối đi.

   Sau khi xem xét toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như diễn biến tại phiên tòa, căn cứ quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

   Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử tuyên án phù hợp với đề nghị của Kiểm sát viên.

   Nhận thấy, trong các vụ án có liên quan đến đất đai nói chung và các tranh chấp về lối đi nói riêng, việc làm rõ được bản chất vụ việc và thu thập được đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để có căn cứ giải quyết tranh chấp là vấn đề nan giải, bởi quá trình sử dụng đất xuyên suốt kéo dài qua các thời kỳ, thỏa thuận mua bán không rõ ràng và đầy đủ như hiện nay, đất đai được chuyển nhượng qua nhiều người gây khó khăn cho việc thu thập chứng cứ.…

   Ngoài ra, còn có sự nhầm lẫn, sai sót của Cơ quan nhà nước trong việc quản lý và cấp Giấy chứng nhận làm ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân. Trong vụ án này, xét thấy: Vào năm 1970 ông Nguyễn Văn Thi chuyển nhượng cho bà Vương Thị Lan và bà Vương Thị Ngọc 450m2 đất thuộc thửa 26, tờ bản đồ số 89 (cũ 48) tại phường 2, TP.Vũng Tàu thì hai bên chỉ thỏa thuận chuyển nhượng đất, không đề cập đến lối đi chung. Sau đó, bà Lan chết bà Ngọc được hưởng toàn bộ di sản thừa kế của bà Lan. Năm 2006, bà Ngọc được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2007, bà Ngọc lập Hợp đồng tặng cho con trai là ông Trương Công Tâm. Năm 2016, Ông Tâm và vợ lập Hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất trên cho ông Bùi Ngọc Tuấn.

   Lối đi hiện đang tranh chấp giữa ông Bùi Ngọc Tuấn và ông Nguyễn Văn Thi có diện tích 149,2m2 nằm trong tổng số diện tích 1.097 m2 đất được cấp cho ông Nguyễn Văn Thi theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 523099 do UBND Tp.Vũng Tàu cấp ngày 01/8/2005. Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai TP.Vũng Tàu cũng xác nhận “Khi tiến hành đo đạc ranh giới thửa đất tháng 8/2005 phục vụ cho việc cấp Giấy chứng nhận cho bà Ngọc đã thể hiện có lối đi nhờ vào thửa đất bà Vương Thị Ngọc. Tuy nhiên, khi in Giấy chứng nhận Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Tp.Vũng Tàu đã không ghi nội dung về lối đi nhờ nêu trên trong sơ đồ vị trí trong Giấy chứng nhận của bà Ngọc là không đúng quy định”. Ngoài ra, theo Biên bản xác định ranh giới đất tại số 40/2 Hạ Long được lập ngày 10/8/2006 và Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/3/2018 của Tòa án Tp.Vũng Tàu thì phía sau đất của ông Bùi Ngọc Tuấn còn có 1 con đường ngang đi chung về phía giáp ranh giữa chùa Quan Âm Phật Đài và tịnh xá Như Lai xuống đường Hạ Long. Như vậy, có căn cứ để xác định lối đi hai bên đang tranh chấp là lối đi nhờ không phải là lối đi chung giữa gia đình ông Tuấn với ông Thi, nhà của gia đình ông Tuấn cũng không bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng nên ông Tuấn không có quyền yêu cầu ông Thi dành cho gia đình ông một lối đi hợp lý trên phần đất của ông Thi.

   Vì vậy, quyết định của Hội đồng xét xử trên là phù hợp theo quy định tại theo quy định tại Điều 245; Khoản 1,2 Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.

 

   Tin bài: Nguyễn Thị Ngần - VKSND TP. Vũng Tàu

Lên đầu trang