21/01/19 14:48

Sự cương quyết của chính quyền địa phương trong vụ việc Cưỡng chế công trình vi phạm của gia đình chính sách

   Ngày 18/01/2019, Tòa án nhân dân Tp.Vũng Tàu mở phiên tòa tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án “Khởi kiện Quyết định số 153/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND phường 11, Tp.Vũng Tàu” giữa người khởi kiện là bà Trần Thị L, cư trú tại Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với người bị kiện là Chủ tịch UBND phường A, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Toàn cảnh phiên tòa

   - Nội dung vụ án: Vào cuối năm 2016, đầu năm 2017 bà Trần Thị L có làm đơn xin phép UBND phường A, Tp.Vũng Tàu cho bà L cơi nới một chòi tôn trên đất nông nghiệp tại cạnh số 01 Đô Lương, P.11, Tp. Vũng Tàu nhưng không được đồng ý. Tuy nhiên, bà L nghĩ dựng chòi tạm bằng khung sắt không ảnh hưởng gì nên bà vẫn tiến hành dựng chòi tạm khoảng 20m2. Đến ngày 11/9/2017 bà L nhận được Thông báo số 82/TB-UBND của UBND P.A căn cứ vào Quyết định 153/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 (sau đây gọi tắt là QĐ 153) để cưỡng chế công trình vi phạm của bà vào lúc 08 giờ ngày 19/9/2017. Ngày 19/9/2017 lúc bà L không có mặt ở nhà thì UBND P.A cho tổ chức tháo dỡ căn chòi của bà L. Tuy nhiên, bà L cho rằng QĐ 153 ban hành không đúng quy định vì căn cứ vào Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 nhưng Nghị định này không còn hiệu lực pháp luật. Về nội dung thì QĐ 153 quy định thời hạn thực hiện là 05 ngày kể từ ngày 29/5/2017 nhưng đến ngày 19/9/2017 mới tổ chức cưỡng chế là không đúng thời hạn, ngoài ra việc cưỡng chế cũng không đúng theo Kế hoạch 68/KH-UBND ngày 07/6/2017. Do đó, bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy Quyết định 153/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND phường A, Tp.Vũng Tàu; Yêu cầu UBND phường A phải bồi thường 248.895.500 đồng (tổn thất về tinh thần cho bà L 70.000.000 đồng, bà H (con gái bà L) 30.000.000 đồng và tổn thất về tài sản 148.895.000 đồng); Buộc phải trả lại cho bà L bằng Tổ quốc ghi công, 03 bát hương, di ảnh liệt sỹ, huân huy chương liệt sỹ, ảnh Bác Hồ.

   Về phía người bị kiện không đồng ý với yêu cầu hủy Quyết định 153/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 và bồi thường của bà L vì việc cưỡng chế tháo dỡ căn nhà xây dựng không phép của bà L là thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

   Vụ án trên được thụ lý từ đầu năm 2018, nội dung vụ án nhạy cảm và phức tạp, có liên quan đến nhiều người. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tạo điều kiện cho các đương sự tiến hành đối thoại để thỏa thuận được toàn bộ nội dung vụ án nhưng đều không thành nên đã lập biên bản và đưa vụ án ra xét xử.

   Về nội dung vụ án, nhận thấy: Mặc dù không được UBND phường A cho phép xây dựng căn nhà trên đất nông nghiệp cạnh số 01 Đô Lương, phường 11, Tp.Vũng Tàu vì khu đất trên nằm trong khu quy hoạch trung tâm hành chính TP.Vũng Tàu nhưng bà L vẫn xây dựng nhà tôn, diện tích 30m2. Sau đó, qua kiểm tra, giám sát UBND phường A đã phát hiện bà L có hành vi vi phạm nên đã giải thích, vận động bà L tự nguyện tháo dỡ công trình vi phạm nhưng bà L không ký nhận bất kỳ giấy tờ nào và cũng không tự nguyện tháo dỡ công trình vi phạm. UBND phường A đã lập biên bản vi phạm và ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà L và giao cho bà L, bà nhận nhưng vẫn không ký nhận nên UBND phường A đã lập biên bản về việc giao Quyết định trên cho bà L có sự chứng kiến của đại diện UBMTTQ P.A,  Trưởng khu phố 3 và có chụp ảnh kèm theo.

   Ngày 26/5/2017, UBND phường A tiếp tục kiểm tra hiện trạng nhưng bà L vẫn chưa tự nguyện tháo dỡ, cũng không nộp phạt vi phạm hành chính nên ngày 29/5/2017 Chủ tịch UBND phường A, Tp.VT ban hành Quyết định số 153/QĐ-UBND cưỡng chế công trình vi phạm là đúng trình tự, thủ tục theo quy định. Quyết định 153/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 được giao cho bà L tại công trình vi phạm, bà L nhận nhưng không ký nhận vào sổ nhận văn bản nên UBND phường A đã lập biên bản về việc giao QĐ trên có sự chứng kiến của đại diện UBMTTQ P.A, Trưởng khu phố 3 và có chụp ảnh kèm theo. Sau khi nhận QĐ 153, bà L không tự nguyện tháo dỡ và tiếp tục có hành vi cơi nới thêm công trình vi phạm nên UBND phường A đã ban hành Kế hoạch và Thông báo về việc tổ chức cưỡng chế công trình vi phạm của bà L (có niêm yết công khai tại công trình vi phạm và trụ sở UBND phường A). Trước khi tiến hành cưỡng chế, đại diện Phòng Lao động-Thương binh-Xã hội phối hợp cùng UBND phường tiếp tục đến nhà vận động bà L và người nhà tự tháo dỡ công trình vi phạm nhưng bà L vẫn viện cớ là gia đình chính sách không thực hiện và còn thách thức chính quyền cưỡng chế, xong bà đi kiện. Ngày 19/9/2017 UBND phường A đã tiến hành cưỡng chế phá dỡ toàn bộ công trình vi phạm của bà L, khi tiến hành cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm thì bà L không có mặt tại đó, tuy nhiên theo Điều 24 Nghị định 180/2007/NĐ-CP thì: “Trường hợp chủ đầu tư vắng mặt hoặc cố tình vắng mặt thì quyết định cưỡng chế phá dỡ vẫn phải được tổ chức thực hiện” nên việc cưỡng chế phá dỡ vẫn được thực hiện là đúng quy định.

   Bà L cho rằng Quyết định 153 được ban hành dựa trên cơ sở căn cứ Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 là không đúng quy định vì tại thời điểm đó Nghị định 180/2007/NĐ-CP không còn hiệu lực pháp luật là không có cơ sở, vì: Theo Công văn hướng dẫn ngày 12/8/2016 của Bộ xây dựng thì Nghị định số 180/2007/NĐ-CP và Nghị định số 121/2013/NĐ-CP tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi có Nghị định thay thế. Ngày 27/11/2017 Chính phủ ban hành Nghị định 139/2017/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng;… có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2018 thay thế cho Nghị định 121/2013/NĐ-CP và Nghị định 180/2007/NĐ-CP. Như vậy, vào thời điểm UBND P.A ban hành QĐ 153 thì Nghị định số 180/2007/NĐ-CP và Nghị định số 121/2013/NĐ-CP vẫn có hiệu lực pháp luật.

   - Về yêu cầu UBND phường A phải bồi thường 248.895.500 đồng, xét thấy: QĐ 153/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 và việc cưỡng chế tháo dỡ căn nhà tạm của bà L xây dựng trái phép đã được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật. Do đó, căn cứ vào Điều 6 Luật bồi thường trách nhiệm của Nhà nước, thì yêu cầu bồi thường của của bà L và bà H chưa đủ điều kiện pháp lý theo quy định của pháp luật, nên không có căn cứ để chấp nhận.

   Sau khi xem xét toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa và các căn cứ pháp luật. Kiểm sát viên Viện kiểm sát Tp.Vũng Tàu nhận thấy: Quyết định số 153/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của UBND phường A, Tp.Vũng Tàu được ban hành đúng trình tự thủ tục, thẩm quyền và nội dung theo quy định pháp luật nên không có cở sở để chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 153/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của bà L. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính.

   Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử tuyên bố kéo dài thời gian nghị án, dự kiến tuyên án vào ngày 22/01/2019.

   

     Tin bài: Nguyễn Thị Ngần - Viện KSND TP.Vũng Tàu

Lên đầu trang